Không nên nâng mức khống chế tỷ lệ lãi vay

(ĐTTC) – Sáng nay 26-12, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã tổ chức tọa đàm “Khấu trừ lãi suất và trốn tránh thuế: Sửa Nghị định 20/2017/NĐ-CP theo hướng nào?”.
Không nên nâng mức khống chế tỷ lệ lãi vay
Theo PGS.TS Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế vĩ mô, Viện VEPR, thống kê số lượng doanh nghiệp (DN) có chi phí lãi vay/EBITDA (thu nhập của công ty trước lãi vay, thuế, khấu hao và khấu trừ dần) theo các mức độ khác nhau thì có kết quả như sau. 
Ví dụ, vào năm 2016, số DN có tỷ lệ lãi vay/EBITDA > 20% của khu vực DNNN 396 (chiếm 16,5% tổng số DNNN), của khu vực FDI 673 doanh nghiệp (chiếm 4,9% tổng số DN FDI), khu vực ngoài nhà nước 37.956 DN (chiếm 8,2% tổng số DN ngoài nhà nước).
Như vậy, DN ngoài nhà nước là khu vực có tỷ lệ lãi vay/EBITDA lớn nhất. Tuy nhiên, đây lại là khối DN ít có quan hệ liên kết nhất nên ít chịu sự điều chỉnh của NĐ 20. Trong khi đó, tỷ trọng nhóm DN có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu > 3 và tỷ lệ lãi vay/EBITDA > 20% trong khu vực DNNN lớn nhất (lần lượt gần 20,5% và 19,4% trung bình trong giai đoạn 2013-2016). 
Trong khi đó, trong cùng giai đoạn, tỷ trọng DN có tỷ lệ lãi vay/EBITDA > 20% chỉ 5,5% trong khu vực FDI và 5,3% trong khu vực ngoài nhà nước. DNNN cũng là nhóm có nhiều hoạt động liên kết nhất thông qua mô hình tập đoàn và tổng công ty. Đây chính là lý do NĐ 20 gặp nhiều sự phản đối từ nhóm DN này.
Khu vực FDI có chi phí lãi vay quốc tế/lãi vay trong nước bằng khoảng 1,2 lần trong giai đoạn 2013-2016. Hệ số nợ/vốn chủ sở hữu của nhóm DN này thấp nhất, nhưng không quá xa hai khu vực còn lại (1,6 so với 1,8). Điều này chứng tỏ khu vực FDI chủ yếu có vay nợ từ thị trường quốc tế, rất có thể là từ các công ty liên kết ở nước ngoài. Trong năm 2016, chỉ có khoảng 4,9% số DN trong khu vực FDI có tỷ lệ lãi vay/EBITDA > 20%, và chỉ khoảng 3,4% số DN trong khu vực này có tỷ lệ lãi vay/EBITDA > 30%.
Điều đáng lưu ý, trong số những DN có tỷ lệ lãi vay/EBITDA > 20% không phải DN nào cũng có giao dịch liên kết. Do vậy, số DN thực sự chịu sự điều chỉnh của NĐ 20 trong khu vực FDI còn thấp hơn nữa. Khối này hầu như cũng không có phản ứng gì kể từ khi NĐ 20 có hiệu lực. Do vậy, muốn chống được hành vi trốn thuế rất phức tạp của khu vực FDI, và cả khu vực DN trong nước hiện nay, Chính phủ không nên nâng mức khống chế tỷ lệ lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế từ 20% lên 30% như đòi hỏi của một số DN.
Ngoài việc hạn chế hành vi trốn tránh thuế, việc hạn chế mức trần lãi vay được khấu trừ thuế còn làm tăng khả năng cạnh tranh của các DN trong nước với các DN FDI vốn có lợi thế hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn trên thị trường quốc tế hoặc từ các công ty mẹ ở nước ngoài. Tương tự, nó cũng giúp làm tăng khả năng cạnh tranh của các DN tư nhân với DNNN vốn có lợi thế hơn về khả năng tiếp cận các nguồn vốn. 
Rõ ràng, việc những tập đoàn như EVN hay TKV đứng ra vay nợ rồi cho các công ty thành viên vay lại sẽ dễ dàng và hưởng lãi suất ưu đãi hơn rất nhiều so với việc từng công ty thành viên đi vay, tạo ưu thế lớn so với các DN tư nhân trong nước. Do vậy, việc thắt chặt trần lãi vay được khấu trừ thuế từ các giao dịch liên kết chính là góp phần làm giảm những lợi thế của FDI với DN trong nước, của DNNN với DN tư nhân, tạo sân chơi bình đẳng hơn giữa các loại hình DN.
Do đó, VEPR khuyến nghị, trong tương lai Bộ Tài chính nên có lộ trình giảm tỷ lệ này xuống thấp hơn nữa, và tiến tới loại bỏ hoàn toàn việc khấu trừ lãi vay giữa các công ty liên kết. Ngay bản thân với các khoản vay độc lập, tỷ lệ lãi vay được khấu trừ thuế cũng cần được khống chế ở một mức trần nào đó để đảm bảo cấu trúc tài chính lành mạnh của các doanh nghiệp, và do vậy là hệ thống ngân hàng. 
Liên quan đến điều này, nhiều nước OECD hiện nay đã đưa ra quy định về vốn mỏng (thin capitalization) dựa trên một tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu nhất định (phổ biến là 3). Bất kỳ DN nào có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu vượt mức quy định thì phần lãi phải trả đối với phần vốn vay vượt quá quy định sẽ không được khấu trừ thuế. Thị trường chứng khoán không thể phát triển và DN không thể bớt phụ thuộc vào vốn vay tín dụng nếu Chính phủ không có những quyết sách và định hướng rõ ràng làm lành mạnh hệ thống tài chính.

Các tin khác