Nợ công châu Âu: Tác động và bài học cho Việt Nam

Liên tiếp trong các số báo vừa qua, trên mục Hồ sơ - Tư liệu, báo ĐTTC có loạt bài phân tích, nhận định về khủng hoảng nợ công của thế giới. Bên cạnh những lý do khác biệt và diễn biến, hệ quả khác nhau đối với từng quốc gia cụ thể, song có thể nói, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu hiện nay có cùng nguyên nhân là hệ quả của việc tăng chi, giảm thu ngân sách nhà nước do cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu khởi đầu từ Hoa Kỳ năm 2008.

Liên tiếp trong các số báo vừa qua, trên mục Hồ sơ - Tư liệu, báo ĐTTC có loạt bài phân tích, nhận định về khủng hoảng nợ công của thế giới. Bên cạnh những lý do khác biệt và diễn biến, hệ quả khác nhau đối với từng quốc gia cụ thể, song có thể nói, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu hiện nay có cùng nguyên nhân là hệ quả của việc tăng chi, giảm thu ngân sách nhà nước do cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu khởi đầu từ Hoa Kỳ năm 2008.

Nét chung nữa của các cuộc khủng hoảng nợ công chính là tác động nhân quả từ những chính sách chi tiêu công thiếu kiểm soát, thiếu minh bạch, cũng như của những khuyết tật ngay trong cơ chế nội bộ từng quốc gia. Trong bài viết này, tôi xin góp một vài ý kiến về bài học rút ra từ nợ công châu Âu đối với nước ta.

Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu ít nhiều đã có tác động trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và cả lâu dài đến nhiều mặt của đời sống kinh tế-xã hội-chính trị nước ta. Một mặt, những khó khăn thị trường và tài chính từ các nước trong Liên minh châu Âu (EU) đang gặp khủng hoảng - với tư cách đối tác thương mại và thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam ở châu Âu - làm thu hẹp khả năng xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ, lao động và do đó, làm thu hẹp nguồn thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu, kiều hối và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), giảm bớt một số nguồn động lực và cơ hội phát triển, mở rộng xuất khẩu của Việt Nam…

Mặt khác, thực tiễn khắc nghiệt và những trả giá đắt đỏ toàn diện của cuộc khủng hoảng giúp chúng ta rút ra những bài học cảnh tỉnh cần thiết về yêu cầu quản lý nhà nước trong quá trình phòng ngừa và vượt qua khủng hoảng.

Trong đó có sự minh bạch thông tin, quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư công, duy trì hiệu lực, hiệu quả các giám sát vĩ mô, bảo đảm các yêu cầu an sinh xã hội và tìm kiếm, phối hợp các nguồn lực cho phát triển đất nước theo yêu cầu phát triển bền vững.

Đặc biệt, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã củng cố quyết tâm tái cấu trúc kinh tế nói chung, đầu tư công tại nước ta nói riêng, theo hướng: Về dài hạn cần chủ động giảm thiểu đầu tư công, tăng đầu tư ngoài ngân sách nhà nước trong tổng đầu tư xã hội; chuyển trọng tâm đầu tư công ra ngoài lĩnh vực kinh tế, để tập trung vào phát triển các lĩnh vực hạ tầng và xã hội; phòng ngừa và giảm thiểu những hoạt động đầu tư công gắn với sự chi phối của ý chí chủ quan, ngắn hạn, "tư duy nhiệm kỳ", bệnh thành tích, hay "lợi ích nhóm"; đồng thời cần có sự đổi mới quy trình, tiêu thức phù hợp và chuẩn hóa để tạo căn cứ lựa chọn và thông qua các dự án công theo lĩnh vực, yêu cầu đầu tư, mục tiêu kinh tế-xã hội, môi trường, cũng như các lợi ích quốc gia và địa phương, ngành.

Cụ thể, cần phân biệt 2 loại mục tiêu và 2 loại tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư công - đầu tư vì lợi nhuận và đầu tư phi lợi nhuận, khắc phục sự nhập nhằng giữa nguồn vốn hoạt động vì lợi nhuận với nguồn vốn hoạt động phi lợi nhuận, cũng như giữa trách nhiệm xã hội của các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, thu hẹp tỷ trọng và giảm số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, chỉ duy trì doanh nghiệp 100% vốn nhà nước trong những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần độc quyền, giữ vị trí then chốt của nền kinh tế và các lĩnh vực mà doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân không hoặc chưa muốn, chưa có khả năng tham gia.

Ưu tiên xây dựng các mô hình tập đoàn kinh tế đa sở hữu, với vai trò nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước, đảm nhận vai trò chủ lực trong nền kinh tế, được vận hành theo đúng quy luật kinh tế, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận liên kết, hợp tác giữa các pháp nhân độc lập.

Bài học nữa rút ra là nhanh chóng thành lập tập đoàn kinh tế tư nhân, kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính. Bên cạnh đó, tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành, lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công, ổn định kinh tế vĩ mô.

Nghiên cứu chỉnh sửa giảm tỷ trọng xuống dưới 10%, thậm chí bãi bỏ sớm quy định cho phép doanh nghiệp nhà nước được phép đầu tư trái ngành vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. Khuyến khích phát triển tập đoàn đa sở hữu, cổ phần và tiêu chuẩn hóa quản trị doanh nghiệp theo yêu cầu phòng tránh rủi ro cao.

Đặc biệt, cần đảm bảo tính ổn định hệ thống, chủ động phòng ngừa các tác động mặt trái, những cái “bẫy” nợ nần và hiệu quả thiết thực trong quá trình tái cấu trúc trong cả khu vực doanh nghiệp, cũng như  khu vực tài chính - ngân hàng. Ngoài ra, cần chú ý xử lý tốt các vấn đề liên quan đến mua bán sáp nhập doanh nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp, an sinh xã hội…

Các tin khác