Thanh gươm báu và bài học đánh giặc

(ĐTTCO) - Thượng tướng Trần Văn Trà là vị tướng luôn bám sát chiến trường, không ngừng nghiên cứu binh pháp, đặc biệt thấm nhuần và vận dụng linh hoạt những bài học đánh giặc của tổ tiên. Trên hành trình binh nghiệp của mình, ông từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho thanh gươm quý trong lần đầu được diện kiến lãnh tụ ở Việt Bắc, mà ông xem như báu vật của đời mình, đến khi vĩnh biệt cõi đời còn khắc hình ảnh thanh gươm trên bia mộ…

Bất ngờ được lãnh tụ trao báu vật 
Sinh thời Thượng tướng Trần Văn Trà ưu ái dành cho tôi nhiều cuộc gặp gỡ, trò chuyện. Tôi nhớ mãi kỷ niệm lần đầu được gặp ông vào một sáng gần lễ kỷ niệm ngày thống nhất đất nước 30-4 đầu thập niên 1990. Trong bộ quân phục không quân hàm ông ung dung bước ra với mái đầu bạc trắng, gương mặt tươi tắn phúc hậu, đôi mắt sáng quắc sau cặp kính lão. Sự oai phong của một danh tướng thao lược dạn dày trận mạc vẫn toát ra trong từng cử chỉ, nụ cười, lời nói của ông khi đã ở tuổi thất thập. 
Để sang một bên những album ảnh nghệ thuật trắng đen do chính mình chụp thời còn trên chiến trường, Thượng tướng Trần Văn Trà vào bên trong gian thờ lấy ra một thanh gươm được bao bọc cẩn thận. Ông nâng gươm, rút mạnh, một luồng ánh sáng vụt hiện. Lưỡi gươm bóng loáng lấp lánh ánh bạc. Tôi trầm trồ: “Thanh gươm đẹp quá! Từ đâu bác có được thanh gươm quý này, thưa bác”. “Đây là cả câu chuyện dài thú vị lắm cháu ạ” - ông nói.
Thanh gươm báu và bài học đánh giặc ảnh 1 Thượng tướng Trần Văn Trà về thăm lại chiến khu Lộc Ninh.
Gần nửa thế kỷ trước, vào mùa hè năm 1948, Trần Văn Trà lúc ấy mới 29 tuổi, đang giữ trọng trách Khu bộ trưởng, tức Tư lệnh Khu 8, chiến khu gồm các tỉnh miền Trung Nam bộ: Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Sa Đéc,  dẫn đầu đoàn đại biểu Nam bộ ra chiến khu Việt Bắc. Bộ Chỉ huy Khu 8 đóng tại căn cứ địa Đồng Tháp Mười.
Tư lệnh Trần Văn Trà cùng Chính ủy Nguyễn Văn Vịnh đã tổ chức xây dựng ở đây đơn vị bộ đội chủ lực đầu tiên cấp tiểu đoàn là Tiểu đoàn 307, tiến hành một số trận đánh tập trung gây tiếng vang như Giồng Dứa, Mộc Hóa… Nhờ sự chuyển biến của chiến trường Khu 8 và Nam bộ, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh đề nghị cử phái đoàn ra Trung ương báo cáo tình hình. 
Không có xe, chỉ đi bộ. Một trung đội vũ trang mạnh được tuyển chọn đi theo bảo vệ. Ông là trưởng đoàn, trực tiếp chỉ huy trinh sát và chiến đấu khi bị địch tấn công. Hết rừng cao su miền Đông đến bãi cát dài nắng nung người duyên hải miền Trung. Chèo ghe trên biển đêm. Lội bộ qua suối. Luồn sâu vùng địch tạm chiếm với nhiều đồn bót rình rập. Vượt núi cao nhiều thú dữ.
Bơi qua sông sâu mùa lũ lụt. Thiếu ăn. Sốt rét. Kiệt sức. Có lúc đoàn phải dừng lại bàn bạc nên trở về hay tiếp tục hành trình khó khăn nguy hiểm. Sau gần nửa năm hành quân vượt qua muôn vàn gian nan, Trần Văn Trà đã đưa đoàn đại biểu quân dân chính Nam bộ tới Việt Bắc - thủ đô kháng chiến chống Pháp.
Những ngày ở Việt Bắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Trung ương, đã đem lại cho Trần Văn Trà sự vững tin hơn ở tương lai, dù cuộc chiến đấu trường kỳ phía trước đầy cam go thử thách.
Trước khi trở về Nam, Bác Hồ cho mở tiệc tiễn đoàn và đích thân trao cho vị tư lệnh chiến trường một thanh gươm, ân cần căn dặn: “Bác trao chú thanh gươm quý này đưa về để đồng bào miền Nam diệt thù. Các chú báo cáo với đồng bào rằng lòng Bác, lòng Đảng lúc nào cũng bên cạnh đồng bào. Chúng ta đồng lòng vì nước, nhất định chúng ta thắng”. Lời ủy thác của lãnh tụ càng giúp Trần Văn Trà và đồng đội tự tin, mạnh mẽ và bản lĩnh hơn, thúc giục họ nhanh chân trở lại chiến trường lập công. 
Thanh gươm cứu nước mang biểu tượng của tin yêu và kỳ vọng. Dù sau này nhiều lần được gặp làm việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng đối với chiến tướng Trần Văn Trà, kỷ niệm lần đầu ấy vẫn ấn tượng sâu sắc hơn cả. Thanh gươm báu ông vinh dự được lãnh tụ tối cao trao tặng đã trở thành “bửu bối” thiêng liêng bên ông suốt ba mươi năm chinh chiến, vào sinh ra tử ở đầu sóng ngọn gió chiến trường trọng điểm cuối trời Tổ quốc.

Bài học đại đoàn kết
Sau Hiệp định Geneva năm 1954, Trần Văn Trà phụ trách chuyển quân từ Nam bộ tập kết ra Bắc, được cử làm Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội, tiếp đó kiêm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn, Giám đốc Học viện Quân chính và Chánh án Tòa án quân sự Trung ương.
Ngày 31-8-1959, theo Sắc lệnh 036/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trần Văn Trà được phong thẳng quân hàm Trung tướng cùng với Nguyễn Văn Vịnh, Hoàng Văn Thái, Song Hào. Nếu như trong đợt thụ phong quân hàm cấp tướng chính thức đầu tiên vào đầu năm 1948, chỉ duy nhất Tư lệnh Nam bộ Nguyễn Bình được phong Trung tướng, lần thứ hai này có 4 quân nhân được gắn hàm Trung tướng. 
Năm 1963, theo yêu cầu của chiến trường, Trung tướng Trần Văn Trà được cử vào làm Ủy viên Trung ương Cục, Phó Bí thư Quân ủy, Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam. Trước khi ông lên đường vượt Trường Sơn, bác Hồ mời cơm thân mật và căn dặn: “Chú đã sang Liên Xô học nên cần phải nắm vững khoa học quân sự của phe ta, nhưng đồng thời cũng cần phải nắm chắc và kết hợp cách đánh giặc của ông cha ta nữa.
Chắc chú biết vì sao nhà Trần 3 lần đại thắng quân Nguyên Mông mạnh hơn ta gấp bội. Đó là nhờ lòng dân, sức dân và đại đoàn kết toàn quân dân. Đó là nhờ cha ông ta biết chỉ huy binh sĩ yêu thương nhau như con một nhà". Bài học tư tưởng đại đoàn kết, dựa vào sức mạnh nhân dân, thương yêu chiến sĩ như anh em trong gia đình, được ông mang theo và áp dụng trong suốt quá trình xây dựng các lực lượng vũ trang và chỉ huy chiến trận.
Là vị chỉ huy trực tiếp trên chiến trường nóng bỏng, Trần Văn Trà luôn tranh thủ thời gian để nghiên cứu, trau dồi kiến thức quân sự, rút ra những bài học bổ ích và kịp thời. Trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam cũng như thế giới, vị tướng ông khâm phục nhất là Nguyễn Huệ. “Tôi chưa thấy vị tướng nào trên thế giới bách chiến bách thắng như ông.
Chỉ cần trận đánh tại Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã đuổi quân xâm lược Xiêm ra khỏi bờ cõi. Rồi chỉ trong khoảng thời gian ngắn, thần tốc, Nguyễn Huệ lại đánh tan quân xâm lược Thanh. Cả cách hành quân, cách đánh, nghệ thuật chỉ huy cũng khó ai sánh bằng, rất mưu lược và sáng tạo” - Thượng tướng Trần Văn Trà thổ lộ. 
Trên cương vị Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, chiến trường chính do tướng Trần Văn Trà phụ trách là Mặt trận B2. Đây là địa bàn chiến lược trọng điểm, từ Ninh Thuận đến Cà Mau và phía Nam Tây nguyên, trong đó có Sài Gòn, thủ phủ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Với tư tưởng đoàn kết trên dưới một lòng, Tư lệnh Trần Văn Trà đã gắn kết, chỉ đạo, phát huy tài năng những cán bộ, chiến sĩ gắn bó gần xuyên suốt chiến trường Nam bộ và cực Nam Trung bộ, lập nhiều chiến công. Tư tưởng và hành động của danh tướng Trần Văn Trà là bài học đáng quý cho hậu thế. 
 Tướng Trần Văn Trà tên thật Nguyễn Chấn sinh trưởng ở Quảng Ngãi, học Trường Kỹ nghệ thực hành Huế, vào Sài Gòn hoạt động cách mạng. Ông tham gia thành lập lực lượng bộ đội chủ lực đầu tiên ở Nam bộ chống Pháp tái xâm lược, trở thành Tư lệnh miền Nam thời đánh Mỹ, cùng chỉ huy đại quân kết thúc cuộc trường kỳ kháng chiến cứu nước, làm Chủ tịch Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định. Ông là vị tướng duy nhất được Nhà nước trao tặng 2 Huân chương Hồ Chí Minh. Vì sức khỏe yếu, ông mất ngày 20-4-1996.

Các tin khác