Tản Đà - kẻ sĩ tài danh với sông Đà núi Tản

(ĐTTCO) -Năm 2019 kỷ niệm 130 năm ngày sinh và 80 năm ngày mất nhà văn hóa Tản Đà. Ông được xem là bậc thi bá giữ vị trí cầu nối giữa thơ cũ và thơ mới đầu thế kỷ 20 trong lịch sử văn học Việt Nam cận và hiện đại.
 Ông còn là nhà báo tiêu biểu thuở sơ khai của báo chí Việt Nam, từng là chủ bút các tờ Hữu Thanh tạp chí, An Nam tạp chí…
Chúng tôi đã tìm về vùng non nước núi Tản sông Đà thắp nén hương tưởng nhớ bậc kẻ sĩ tài danh nhưng cũng đầy thăng trầm…Với di sản văn chương và báo chí phong phú để lại, Tản Đà là nhà văn hóa đáng trân trọng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khu tưởng niệm Tản Đà ở quê hương ông giữa miền sơn thủy hữu tình, rất nên thơ và trang trọng.
Nhìn cảnh nhớ người, trong khói hương tưởng nhớ bậc tài hoa lận đận, trong tôi lại vang lên bài thơ tự trào ngang tàng mà ngậm ngùi của ông: Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có cửa nhà thời không/ Nửa đời nam, bắc, tây, đông/ Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly/ Túi thơ đeo khắp ba kỳ/ Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...”.
Tản Đà - kẻ sĩ tài danh với sông Đà núi Tản ảnh 1 Gia đình ông Nguyễn Khắc Xương trong một lần về thăm khu lưu niệm về người cha tài hoa. 
Quê hương nhà thơ Tản Đà xưa là làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, Hà Nội. Đây là vùng quê trù phú nằm bên sông Đà, xa xa là dãy núi Ba Vì với ngọn Tản Viên sừng sững. Sông Đà núi Tản không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn Tản Đà - tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu  - còn là quê hương văn học, nguồn cảm hứng bất tận, đi sâu vào tâm thức và thấm đẫm trên mỗi trang viết của ông. 
Sông Đà phía hạ nguồn chảy giữa Hà Nội và Phú Thọ, qua nhiều dấu tích gắn liền với truyền thuyết nòi giống Rồng Tiên. Bên tả ngạn là vùng đất Tổ với kinh đô Phong Châu nước Văn Lang xưa của các vua Hùng. 
Tương truyền, đây là nơi sinh ra tổ mẫu Âu Cơ và sau đó kết duyên với tổ phụ Lạc Long Quân, sinh trăm trứng nở trăm con, rồi chia hai đàn con nửa theo mẹ lên núi nửa theo cha xuống biển. Đây cũng là nơi Hùng Vương dựng nghiệp, đến đời thứ 18, nhường ngôi cho Thục Phán - An Dương Vương.
Còn ở phía hữu ngạn hạ nguồn sông Đà gắn liền với truyền thuyết về thánh Tản Viên với câu chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh cùng những huyền tích khác. Đây cũng là nơi sinh ra Tản Đà, người mà nhà văn Nguyễn Tuân đã trân trọng viết: “Trong chốn tao đàn Tản Đà xứng đáng ngôi chủ súy, trong hội tài tình Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ, mà làng văn làng báo xứ này ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”. 
Sông Đà núi Tản đúc nên ai/ Trần thế xưa nay được mấy người?/ Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc/Thanh cao phô trắng một nhành mai/ Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi/ Danh lợi bèo trôi rượu nặng vai. Ấy là tâm sự trong bài thơ “Phút giao thừa” của thi sĩ Tản Đà.
Cuộc đời phóng túng và nghèo khó, đôi lúc đến tuyệt vọng của “thần ngông” Tản Đà, là hình ảnh tiêu biểu cho một thế hệ kẻ sĩ “sống thừa” bất lực trước thời cuộc, lấy thơ và rượu làm nguồn giải sầu. Nhìn dòng nước xuân sông Đà lặng lờ trôi, trước mặt là dãy Ba Vì uy nghi, tôi lại nhớ tới bài “Ngày xuân thơ rượu” của ông: Trời đất sinh ta rượu với thơ/ Không thơ không rượu sống như thừa/ Công danh hai chữ mùi men nhạt/ Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ/ Mạch nước sông Đà tim róc rách/ Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ.
Thật buồn và đau! Trong tác phẩm “Giấc mộng lớn”, thi sĩ Tản Đà cũng từng viết: “Hằng khi dưới bóng tà dương, bên nọ sông Đà, bên kia núi Tản, một mối cảm tình thanh thượng lơ thơ như tơ liễu chiều xuân. Tiểu thuyết “Thề non nước” - Nước đi đi mãi không về cùng non - văn ý thực phát sinh từ lúc ấy.
Lại đôi lúc sông Đà mùa nước, nước rộng mênh mang, gió cuốn mặt sông, sóng nhô dòng nước, cái cảm tình phấn khích lại cũng theo với những sóng, sông, gió nước, mà tưởng như phá lãng thừa phong: Gió hỡi gió phong trần ta đã chán/ Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong. Hai câu trong bài hát miễu nói “Hỏi gió” có lưu hành trong xóm bình khang cũng là văn thơ lúc ấy vậy.
Bài thơ nổi tiếng “Thề non nước” vừa độc lập vừa nằm trong cuốn tiểu thuyết cùng tên, nguồn cảm hứng cũng từ quê hương núi Tản sông Đà, từng gây nên cuộc tranh luận kéo dài nhiều năm trong giới nghiên cứu và giảng dạy văn học. Bài thơ trữ tình phảng phất câu chuyện lứa đôi, nhưng cốt lõi ẩn chứa tình yêu da diết thiên nhiên, đất nước trước biến thiên của vũ trụ và biến chuyển của cuộc đời thi nhân đang tham dự:
Nước non nặng một lời thề/ Nước đi đi mãi không về cùng non/ Nhớ lời nguyện nước thề non/ Nước đi chưa lại non còn đứng không/ Non cao những ngóng cùng trông/ Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày/ Xương mai một nắm hao gầy/ Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương/ Trời tây chiếu bóng tà dương/ Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha”.
Dù nước mãi đi non mãi ngóng, như sông Đà mãi trôi núi Tản mãi trông. Nhưng bằng dự cảm trái tim trước quy luật tuần hoàn, thi sĩ Tản Đà vẫn chất chứa niềm tin vào sự hội tụ của non nước, núi sông: Dù như sông cạn đá mòn/ Còn non còn nước hãy còn thề xưa/ Non xanh đã biết hay chưa/ Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”. Phải chăng đó cũng là linh cảm của bậc kẻ sĩ về tương lai vận nước ngày nay đã thành hiện thực? 
Tản Đà - kẻ sĩ tài danh với sông Đà núi Tản ảnh 2
Tản Đà sinh ngày 19-5-1889 ở Sơn Tây và mất ngày 7-6-1939 tại Hà Nội. Ông có người con trai trưởng tiếp nối sự nghiệp văn học là nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương, tác giả của nhiều tác phẩm về văn hóa Hùng Vương được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Nhà thơ Tản Đà có cháu đích tôn là Nguyễn Tất Hiển, tức con trai trưởng của Nguyễn Khắc Xương, đi bộ đội vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam, trở thành “Dũng sĩ diệt Mỹ” và hy sinh năm 1972 khi mới 20 tuổi.

Các tin khác