Hào hùng Tổng khởi nghĩa Sài Gòn

(ĐTTCO) - Diễn ra muộn hơn 6 ngày so với Hà Nội, 2 ngày so với Huế, lại trong điều kiện vô cùng khó khăn do xa đầu não cách mạng, nhưng cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại Sài Gòn đã diễn ra thành công, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc cách mạng mùa Thu 1945. 

Và đằng sau cuộc Tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn cách đây 72 năm là những câu chuyện thú vị.

Cô gái xứ Bắc tham gia khởi nghĩa ở Sài Gòn

Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ngày 13-8-1945 cũng là lúc Nhật đầu hàng Đồng minh. Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng trực tiếp phụ trách. Đúng 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa ban bố Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.
Tuy nhiên, do điều kiện giao thông khó khăn, địch kìm kẹp cản trở liên lạc nên không phải địa phương nào trong cả nước cũng được tiếp nhận ngay bản Quân lệnh số 1, đặc biệt là khu vực Sài Gòn- Nam bộ xa xôi cách trở. Vì thế, để vào được với quân dân Sài Gòn- Nam bộ, bản Quân lệnh số 1 đã trải qua cuộc hành trình nghẹt thở. Một trong những người được giao trọng trách mang lệnh Tổng khởi nghĩa vào Nam, bắt liên lạc với Xứ ủy Nam kỳ là bà Nguyễn Thị Kỳ (Cái Thị Tám), phu nhân Đại tướng Văn Tiến Dũng.

Lúc đó bà Kỳ mới tròn 22 tuổi chưa mấy khi xa nhà, nhưng nhận nhiệm vụ cô gái trẻ vẫn sẵn sàng. Cùng với đồng đội là anh Lý Chính Thắng, với mái tóc chải bồng, môi đỏ, má hồng, áo dài lụa màu, vòng vàng giả lấp lánh, Nguyễn Thị Kỳ lên đường. Trên tàu, Lý Chính Thắng và Kỳ đóng vai vợ chồng, quần áo, đồ dùng đều san ra để lẫn trong hai vali, riêng vali Kỳ xách còn có tài liệu, thư từ của tổ chức lót dưới lần đáy của vali.
Hành trình của cô giao thông viên Nguyễn Thị Kỳ và bạn đồng hành không hề dễ dàng. Mấy tên lính Nhật trên tàu thấy cô gái đẹp, mặc áo dài lụa, dáng vẻ con nhà quyền quý thì xán lại ngồi cùng, trêu chọc, sàm sỡ. Lúc đầu cô gái Bắc kỳ chỉ nhẹ nhàng tránh né nhưng càng lúc đám lính càng lấn tới cô dứt khoát gạt tay ra. Bị phản ứng, mấy tên lính Nhật xông vào tát Kỳ.
Đến Tourane (Đà Nẵng), chúng bắt Kỳ giao cho sở hiến binh Nhật ở đây. Trong lúc nguy cấp, Kỳ trao chiếc vali hai đáy có thư của tổ chức cho Lý Chính Thắng. Hai người chỉ kịp hẹn tìm lại nhau tại một cơ sở bên sông Hương (Huế).
Tại đồn lính Nhật, trong tình thế cấp bách, cô gái trẻ đã nghĩ ra một giải pháp táo bạo: “Tôi nói với tên thông ngôn người Việt tôi là phận gái bị lính Nhật trêu chọc bắt, ông tìm cách xin thả tôi ra, tôi thuận về làm vợ lẽ của ông. Thế rồi lính Nhật thả tôi, ông thông dịch viên đưa tôi về nhà trao cho bà vợ cả rồi quay lại đồn. Tôi dò hỏi rồi tranh thủ lúc bà vợ đang nấu cơm dưới bếp chạy ra đường lớn, đón ô tô ngược trở lại Huế. Đến điểm hẹn, anh Lý Chính Thắng đã ngồi đợi từ bao giờ”.

Gian nan vẫn chưa dừng lại ở đó, cả hai đã lỡ tàu đi tiếp phải di chuyển bằng ô tô. Vào đến Phan Rí (Bình Thuận) ô tô cũng hết chuyến. Bà Kỳ nhớ lại: “Tôi hỏi anh Thắng có biết lái môtô, tôi mua để anh chạy vào Sài Gòn, nhưng anh ấy lắc đầu. Thế là phải thất thểu đi bộ. Sáng hôm sau, trong một quán ăn chúng tôi gặp một tên lính Nhật đeo gươm lệt xệt. Thấy tôi xinh đẹp, hắn lại tán tỉnh. Tôi đành giả lả ngọt ngào với tên lính Nhật, kể lể hoàn cảnh rồi xin đi nhờ vào Sài Gòn”.
Tên lính không từ chối được cô gái đẹp và cả Lý Chính Thắng được cho đi cùng trên chiếc môtô ba bánh. Tối hôm đó vào đến Sài Gòn, hai người đã tìm gặp tổ chức để trao thư từ, tài liệu của Đảng. “Không có gì vui sướng bằng. Mối liên lạc đứt đoạn hơn 4 năm đã được nối” - bà Kỳ hồi tưởng. Ngày 25-8-1945, cô gái xứ Bắc vui sướng hòa vào dòng người tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn.

Đường Cộng Hòa (nay là đường Lê Duẩn), nơi tổ chức Lễ Độc lập 2-9-1945 - Ảnh tư liệu 


Ba lần bàn ngày Tổng khởi nghĩa

Sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, ngày 15-8 Xứ ủy Nam Kỳ họp, xác định thời cơ khởi nghĩa đã tới, cần thành lập ủy ban khởi nghĩa và bắt tay ngay vào hành động. Nhưng khi bàn về thời điểm phát lệnh khởi nghĩa, dự kiến đêm 17 hoặc 18-8, một số ý kiến phản bác, lo sợ “khởi nghĩa non” như 5 năm trước và cho rằng không cần khởi nghĩa, không cần bạo động, đấu tranh chính trị cũng có thể đi đến độc lập dân chủ.

Trong vòng 7 ngày, Hội nghị Xứ ủy phải họp tới 3 lần tại Chợ Đệm (huyện Trung Quận thuộc tỉnh Chợ Lớn, nay là huyện Bình Chánh). Sáng 21-8, ông Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ chủ trì cả 3 cuộc hội nghị trên, đưa ra đề nghị cuối cùng được tất cả đại biểu tán thành: Giao Đảng bộ tỉnh Tân An (nay thuộc tỉnh Long An) làm khởi nghĩa thí điểm, sáng 23-8 trở lại báo cáo kết quả với Xứ ủy.
Tân An là cửa ngõ quan trọng phía Tây Nam Sài Gòn, có phong trào quần chúng sôi nổi và được chuẩn bị khá chu đáo. Ngay trong đêm 21-8, Tỉnh ủy Tân An khẩn trương họp, ra “Nghị quyết đỏ”, tổ chức may cờ búa liềm, cờ đỏ sao vàng, tập trung các đội cận vệ đỏ từ các địa phương về thị xã. Trong ngày 22-8, các đội cận vệ đỏ đã tước vũ khí của lính bảo an tỉnh, thu hơn 140 súng và thiết lập trật tự chung toàn thị xã.

Rạng sáng 23-8, ngay sau khi Ủy ban Nhân dân cách mạng tỉnh Tân An ra mắt đồng bào, Xứ ủy Nam kỳ quyết định Sài Gòn sẽ khởi nghĩa ngày 25-8. Sáng 25-8, cả triệu quần chúng Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh lân cận ào ạt kéo vào nội thành với khí thế sục sôi cách mạng. Đoàn người hô vang “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “Tất cả chính quyền về tay Việt Minh”, “Mặt trận Việt Minh muôn năm”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm”, “Độc lập hay là chết”. Cờ đỏ sao vàng tràn ngập đường phố, phấp phới bay trên các công sở.

Diễn văn ứng khẩu của GS. Trần Văn Giàu

Lễ đài Lễ Độc lập ngày 2-9-1945 tại Sài Gòn đặt trên đường Cộng Hòa (nay là đường Lê Duẩn), phía sau nhà thờ Đức Bà. Từ 12 giờ trưa, dưới ánh nắng chói chang, các đoàn thể, dân quân, thanh niên, học sinh và người dân từ các vùng ngoại ô kéo về, cả đại lộ Cộng Hòa như biển người. Đến 14 giờ không khí quảng trường như lắng xuống bởi việc tiếp sóng tiếng Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội bị trục trặc.
Nửa giờ trôi qua, dân chúng bắt đầu bàn tán xôn xao (sau này mới biết lý do của sự cố do đài phát quá yếu, máy thu cũ, thời tiết hôm ấy lại xấu nên ở Sài Gòn không thể nghe được). Ban tổ chức buổi lễ đề nghị ông Trần Văn Giàu, Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời Nam bộ, lên phát biểu. Đây là điều nằm ngoài dự kiến của chương trình buổi lễ. Ông Trần Văn Giàu bước lên lễ đài, ứng khẩu một bài diễn văn. Hôm sau nhiều tờ báo ở Sài Gòn đều đăng tin về diễn văn này.

Mở đầu, ông Trần Văn Giàu tuyên bố về một đổi thay lớn lao trong lịch sử nước nhà sau Cách mạng Tháng Tám: “Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã trở thành một nước độc lập. Việt Nam từ một đế chế đã trở thành một nước cộng hòa. Việt Nam đương tiến bước trên đường sống. Song cuộc hồi sinh của dân tộc đang bị kẻ thù đe dọa… Mừng thắng lợi, nhưng đồng bào chớ say sưa vì thắng lợi…”.
Từ lễ đài, ông Trần Văn Giàu hỏi những người dự lễ: “Đồng bào ở đây có ai thừa nhận một quan toàn quyền cai trị xứ ta không? Có ai chịu bó tay để cho chế độ thực dân - ra mặt hay giấu mặt - trở lại không?”. Sau mỗi câu hỏi đó của ông, cả triệu người đồng thanh đáp lại “Không! Không! Không!” vang dội một góc trời. Ông Trần Văn Giàu kết thúc bài diễn văn bằng lời kêu gọi: “Quốc dân hãy sẵn sàng chiến đấu!... Đứng lên! Ngày độc lập bắt đầu từ nay! Tiến tới, vì độc lập, vì tự do, tiến tới mãi! Không một thành lũy nào ngăn nổi chí của muôn dân trên đường giải phóng!”.

Đáp trả bài diễn văn ứng khẩu của ông Trần Văn Giàu, đại biểu của nhân dân đọc lời thề: “Chúng tôi, toàn thể nhân dân Việt Nam, cương quyết một lòng ủng hộ Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh… Nếu Pháp đến xâm lược Việt Nam lần nữa chúng tôi quyết: Không đi lính cho Pháp. Không làm việc cho Pháp. Không bán lương thực cho Pháp. Không dẫn đường cho Pháp”. Cả triệu người đưa nắm tay lên nhất loạt hô: “Xin thề! Xin thề! Xin thề!” như tiếng sấm vang rền.

Các tin khác