Đặt tên cho nông sản Việt

CDĐL là dấu hiệu được dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Sản phẩm được bảo hộ CDĐL bao gồm sản phẩm tự nhiên, sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm, chế biến, hàng thủ công mỹ nghệ...

Hiện nay, với khoảng 10.000 chỉ dẫn địa lý (CDĐL) trên thế giới, giá trị giao dịch thương mại từ các chỉ dẫn này hàng năm ước đạt 50 tỷ USD. Việt Nam cũng có nhiều đặc sản của vùng miền nhưng đến nay mới đăng ký bảo hộ CDĐL được 38 sản phẩm. Thiếu CDĐL đã khiến sức cạnh tranh của sản phẩm nội giảm.

CDĐL là dấu hiệu được dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Sản phẩm được bảo hộ CDĐL bao gồm sản phẩm tự nhiên, sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm, chế biến, hàng thủ công mỹ nghệ...

Theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học - Công nghệ), tính đến cuối năm 2010, cả nước có 944 địa danh được sử dụng cho các sản phẩm, dịch vụ đặc thù của địa phương. Trong đó, miền Bắc 361 địa danh, miền Trung 257 và miền Nam 326. Với số lượng này, hiện Việt Nam đang đứng thứ 2 trong số các nước ASEAN về các sản phẩm được CDĐL, sau Thái Lan. Tuy nhiên, với kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản mỗi năm đạt trên 20 tỷ USD và với khối lượng sản vật phong phú vốn có, tiềm năng của Việt Nam còn rất lớn.

Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay là việc đăng ký bảo hộ CDĐL cho sản phẩm chưa được sự quan tâm của các hiệp hội, làng nghề, cũng như địa phương. Tính từ năm 2001, khi có 2 CDĐL đầu tiên được công nhận, cho đến thời điểm này, sau 13 năm mới có thêm 38 nông sản nữa được cấp CDĐL. Việc hạn chế số lượng các CDĐL đang là thiệt thòi cho nông sản Việt vì sản phẩm được đăng ký bảo hộ CDĐL sẽ có giá trị và mang lại lợi nhuận cao hơn.

Vì thế, hiện nay rất nhiều nông sản Việt Nam rơi vào tình trạng được doanh nghiệp nước ngoài mua về và chế biến lại, đóng gói, dán mác khác bán được giá cao hơn.  Cụ thể như mặt hàng nông sản gạo. Theo đó, gạo của Việt Nam thường chỉ bán được với giá hơn 400USD/tấn, nhưng khi doanh nghiệp nước ngoài chế biến, đóng gói, dán nhãn khác bán được giá hơn 1.000USD/tấn.

Một bức xúc nữa là hiện nay rất nhiều sản vật nổi danh trong nước như nước mắm Phú Quốc, cà phê Buôn Mê Thuột, kẹo dừa Bến Tre... đã bị mất thương hiệu trên trường quốc tế. Thậm chí, như câu chuyện của nước mắm Phú Quốc, khi đủ tiềm lực để xuất khẩu doanh nghiệp Việt Nam mới biết nhãn hiệu này đã được doanh nghiệp nước ngoài đăng ký từ đầu những năm 1980 tại Hoa Kỳ.

Tương tự, khi sản phẩm kẹo dừa Bến Tre đang có đà tăng trưởng cao trên thị trường Trung Quốc những năm 1997-1998, chủ doanh nghiệp này bỗng thấy sức tiêu thụ sụt giảm mạnh. Sau khi tìm hiểu mới biết đã xuất hiện loại kẹo nhái sản phẩm của mình. Do chỉ nghĩ đơn thuần lấy chất lượng để khẳng định thương hiệu, chưa chú ý đến việc đăng ký bảo hộ sản phẩm, doanh nghiệp này sau đó đã phải mất rất nhiều công sức, tiền của trong cuộc đấu giành lại thương hiệu của mình.

Câu chuyện về CDĐL được nhắc lại vào thời điểm nhiều hiệp định thương mại đang sắp trở thành hiện thực tại Việt Nam. Khi gia nhập sân chơi chung với những ưu đãi thuế quan ngang bằng, chất lượng và thương hiệu của mỗi sản phẩm sẽ làm nên giá trị của mặt hàng đó. Và khi được đăng ký CDĐL, chắc chắn giá trị sản phẩm sẽ cao hơn, qua đó giúp nâng cao hiệu quả kinh tế và đời sống cho người dân. Đồng thời còn nâng cao giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam đối với các khu vực, thúc đẩy hoạt động du lịch tại các vùng miền, sự phát triển kinh tế - xã hội các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Tuy nhiên, để thúc đẩy việc phát triển CDĐL cho các sản phẩm đòi hỏi trách nhiệm từ người sản xuất, địa phương có sản phẩm và cả những hiệp hội làng nghề. Theo tính toán của các chuyên gia quốc tế, trung bình giá trị tạo ra ở nơi xuất xứ sản phẩm nhỏ hơn 10%, trên 65% giá trị nằm ở công đoạn chế biến, phân phối tại các thị trường tiêu thụ. Do vậy, việc xác lập CDĐL ngày càng trở nên có ý nghĩa hơn.

Trở lại với con số 50 tỷ USD sinh ra mỗi năm từ 10.000 sản phẩm có CDĐL trên thế giới, với những sản vật của Việt Nam ngày càng được bạn bè quốc tế ưa chuộng, chúng ta mới thấy dư địa cho giá trị gia tăng của các ngành hàng nông sản Việt còn rất rộng. Và đây cũng chính là con đường giúp nông dân không còn phải ngày đêm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để tạo ra lượng lớn nông sản mà giá trị về chất thực tế lại xa vời với họ.

Các tin khác