Quản lý thị trường vàng - Kết nối lợi ích Nhà nước, người dân

LTS: Ngay sau khi báo ĐTTC đăng bài chủ điểm: “Thị trường vàng - Thiết lập khuôn khổ pháp lý” (ngày 21-3-2011), tòa soạn đã nhận được nhiều thông tin phản hồi của bạn đọc, nhà đầu tư và các chuyên gia về vấn đề rất nhạy cảm này. Để có cái nhìn rộng hơn, ĐTTC trích đăng bài viết của TH.S Lê Đạt Chí, Trưởng bộ môn Đầu tư Tài chính, Trường Đại học Kinh tế TPHCM.

LTS: Ngay sau khi báo ĐTTC đăng bài chủ điểm: “Thị trường vàng - Thiết lập khuôn khổ pháp lý” (ngày 21-3-2011), tòa soạn đã nhận được nhiều thông tin phản hồi của bạn đọc, nhà đầu tư và các chuyên gia về vấn đề rất nhạy cảm này. Để có cái nhìn rộng hơn, ĐTTC trích đăng bài viết của TH.S Lê Đạt Chí, Trưởng bộ môn Đầu tư Tài chính, Trường Đại học Kinh tế TPHCM.

Hệ lụy thị trường vàng miếng

Trước hết, chúng ta cần phải hiểu lý do tại sao Chính phủ muốn kiểm soát hoạt động của thị trường vàng? Thứ nhất, lâu nay tích trữ vàng đã trở thành tập quán của người dân do lo ngại sự mất giá tiền đồng. Song song với quá trình cất trữ, vàng còn làm chức năng thanh toán trong các giao dịch, nhất là lĩnh vực bất động sản. Thực ra, việc tích trữ và thanh toán là 2 chức năng cơ bản của vàng và nó hoàn toàn chính đáng, tồn tại ở nhiều quốc gia dù đó là nước phát triển hay đang phát triển, nhưng đó không phải là vàng vật chất.

Việc phá giá VNĐ sẽ khiến lạm phát trong nước tăng. Khi đó một vòng xoáy được hình thành: Vàng tăng giá dẫn đến USD tăng giá. USD tăng giá dẫn đến giá trị nội tệ giảm, lạm phát tăng. Lạm phát tăng lại dẫn đến tăng nhu cầu tích trữ vàng… Những diễn biến trong năm 2010 và 2011 cho thấy tác động tiêu cực của giá vàng lên mặt bằng giá cả rất rõ.

Do vậy vấn đề là quản lý như thế nào hiệu quả không làm phát sinh hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường. Giữ vàng vật chất không những gây lãng phí mà còn gây áp lực lên tỷ giá, khiến nội tệ mất giá càng trầm trọng hơn. Điều này phản ánh rõ nét trong vài năm gần đây. Vào tháng 11-2009, giá vàng lên cơn sốt đã khiến giá USD tự do tăng mạnh và chạm mốc 20.000 đồng/USD. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sau đó buộc phải phá giá VNĐ 5,16% vào ngày 26-11-2009.

Thứ hai, việc dự trữ vàng vật chất không chỉ là vấn đề tâm lý chung của người dân mà trở thành một kênh đầu cơ cho cả giới kinh doanh. Theo quy định của Pháp lệnh Quản lý ngoại hối, ngân hàng chỉ bán ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu và các nhu cầu chính đáng khác, tuyệt đối không bán cho nhu cầu cất trữ và thanh toán nội địa của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc đáp ứng này trong thời gian qua không đầy đủ đã làm gia tăng sự lớn mạnh của thị trường ngoại tệ tự do vốn dĩ được hình thành do tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.

Một khi giá vàng thế giới tăng lên, giá vàng trong nước lợi dụng quy đổi bằng USD cao hơn giá thế giới, người dân tranh thủ đầu cơ vàng, buộc NHNN phải cho phép nhập khẩu vàng để bình ổn thị trường. Hành động này có nghĩa NHNN bán ngoại tệ cho các đầu mối nhập khẩu vàng để bán ra thị trường. Như vậy việc cất trữ vàng vật chất không còn đến từ thói quen của người dân, mà còn là một kênh đầu cơ của giới kinh doanh ngoại tệ và vàng, vì nắm giữ vàng cũng được xem như nắm giữ ngoại tệ mạnh. Hệ quả là lượng dự trữ ngoại tệ ngày càng bị bào mòn khi tâm lý nắm giữ vàng ngày càng gia tăng.

Với Trung tâm giao dịch vàng Quốc gia, trước mắt người dân vẫn có thể mua bán vàng miếng khi có nhu cầu. Ảnh: T. Anh

Với Trung tâm giao dịch vàng Quốc gia, trước mắt người dân vẫn có thể mua bán vàng miếng
khi có nhu cầu. Ảnh: T. Anh

Thứ ba, trải qua một thời gian khá dài, thị trường vàng không xác lập được rõ ràng cơ quan quản lý, đã tạo môi trường cho nhiều công ty kinh doanh vàng ra đời để phân chia lợi ích từ hoạt động gia công vàng miếng. Nhiều thương hiệu vàng miếng xuất hiện trên thị trường là minh chứng cho điều này. Việc quy đổi vàng miếng được xác lập theo công thức sau:

Giá 1 lượng  vàng = (giá 1 troy ounce + phí vận chuyển và bảo hiểm) x 1,20556 x (1 + thuế nhập khẩu) x tỷ giá USD/VNĐ + phí gia công.

Thí dụ, với mức giá vàng thế giới hiện nay là 1.428USD/oz, phí vận chuyển và bảo hiểm ước 1,5USD/oz, tỷ giá bán theo VCB niêm yết 20.895VNĐ/USD, thuế nhập khẩu bằng không. Như vậy nếu không tính phí gia công giá vàng trong nước khoảng 36 triệu đồng/lượng. Trong khi đó dù hạ nhiệt nhưng giá thị trường hiện nay khoảng 37,1 triệu đồng/lượng. Điều này cho thấy phí gia công 1 lượng vàng ở Việt Nam được các công ty kinh doanh vàng tính lên đến 1,1 triệu đồng/lượng. Chính vì miếng bánh lợi ích này quá lớn đã hấp dẫn nhiều giới đầu tư nhảy vào tham gia nhập khẩu vàng và nỗ lực bán vàng miếng ở Việt Nam thời gian qua.

Cần sớm thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia

Chủ trương của Chính phủ trong việc kiểm soát hoạt động thị trường vàng là hoàn toàn đúng đắn, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ giá trị của nội tệ, nhưng việc triển khai đang gặp lúng túng. Chúng ta thử hình dung các kịch bản sau:

Nếu thừa nhận việc sở hữu vàng miếng của người dân là hợp pháp, tức được quyền mua và bán vàng tự do và chỉ được thực hiện ở một số đầu mối nhất định. Cách thức này chỉ chấn chỉnh lại thị trường vàng miếng đang diễn ra bát nháo, tùy tiện và đưa về một số đầu mối nhất định. Nói cách khác, tình hình vẫn chẳng thay đổi khi thu hẹp hoạt động kinh doanh vàng về một số đầu mối. Điều này chỉ làm lợi cho một số tổ chức nhất định, thậm chí nếu không quản lý chặt chẽ vàng sẽ bị làm giá. Bởi việc thu hẹp về một số đầu mối sẽ khiến cho việc mua bán vàng của người dân trở nên khó khăn hơn. Thực hiện giải pháp này chắc chắn không đúng chủ trương của Chính phủ nêu trong Nghị quyết 11. Cách thức này sẽ giải tỏa được tâm lý của người dân nhưng không giải quyết được những hệ lụy của nó đối với nền kinh tế.

Điều quan trọng là nâng cao việc quản lý để giá vàng trên thị trường tự do và trung tâm là như nhau, không có sự chênh lệch. Khi người dân cần lấy vàng trên tài khoản sàn vàng tập trung đều được đáp ứng. Việc giao nhận vàng miếng sẽ được thực hiện thông qua kho dự trữ vàng tập trung. Qua việc thành lập sàn giao dịch vàng tập trung, thị trường tài chính sẽ hình thành nên các sàn vàng “phái sinh” bằng những tỷ lệ ký quỹ khác nhau và không thực hiện chức năng giao nhận vàng thật, chỉ nhận bằng tiền sau khi quy đổi…

Nếu thực hiện chủ trương cấm kinh doanh vàng miếng, nghĩa là không được bán vàng cho người dân, người dân bán vàng miếng mà không được mua… có thể gây sốc trong xã hội và phát sinh tư tưởng bất an. Bởi lẽ việc quản lý hoạt động này diễn ra quá gấp rút, xóa bỏ một thói quen không thể chỉ bằng giải pháp hành chính. Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng ở các nước trên thế giới là cho ra đời “Trung tâm giao dịch vàng quốc gia”. Trung Quốc đã làm điều này và đã thành công bước đầu trong việc quản lý thị trường vàng. Khi có trung tâm giao dịch vàng (gọi tắt là sàn vàng), trước tiên buộc giới đầu cơ phải giao dịch qua sàn vàng, áp lực trên thị trường vàng miếng tự do giảm, vì muốn kinh doanh họ không nhất thiết phải mua vàng miếng để cất trữ. Từ đó áp lực lên vàng vật chất không lớn cho nền kinh tế nên không nhất thiết phải nhập vàng miếng. Sau lộ trình này, việc kinh doanh vàng miếng của người dân cũng được đưa lên sàn giao dịch vàng tập trung, lúc đó người dân sẽ quen dần với phương thức giao dịch qua sàn.

Khai thông vốn vàng trong dân

Rõ ràng, mấu chốt vấn đề ở đây là thiết lập và nâng cao việc quản lý của Nhà nước đối với thị trường vàng. Một thị trường vàng được Nhà nước tổ chức, quản lý chặt chẽ sẽ giúp hạn chế tình trạng thao túng, hàng hóa kém chất lượng, xóa bỏ sự chênh lệch không đáng có giữa giá vàng trong nước và thế giới. Đối với Nhà nước, sàn giao dịch vàng quốc gia đem đến 4  lợi ích: Thống kê và kiểm soát sự tích trữ vàng và ngoại tệ của dân chúng; Nhà nước thu được thuế từ các giao dịch vàng; xóa bỏ sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới, từ đó giảm được áp lực lên tỷ giá; thông qua sàn vàng, NHNN có thể dễ dàng hơn trong việc huy động vàng trong dân và làm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia một cách linh hoạt khi cân đối, điều tiết giữa ngoại tệ và vàng.

Với người dân, sàn giao dịch vàng cũng mang đến nhiều sự thuận tiện, có thể mua bán thông qua các thành viên trên thị trường. Người dân chính thức được Nhà nước thừa nhận việc sở hữu vàng, nhưng việc sở hữu này không hoàn toàn bằng vàng vật chất cất trữ riêng lẻ trong gia đình mà được tập trung trong kho vàng quốc gia (đóng vai trò như ngân hàng vàng của quốc gia), thuận tiện trong mua bán, vận chuyển.

Theo tôi, việc quản lý thị trường vàng cần phải có lộ trình, mà trước mắt là sớm thành lập sàn giao dịch vàng tập trung của quốc gia và cho phép người dân và các chủ thể trong nền kinh tế được nhận vàng miếng khi có nhu cầu. Giai đoạn tiếp theo là giám sát chặt thị trường tự do. Nếu phát hiện các điểm kinh doanh trái phép còn giao dịch vàng miếng phải có những biện pháp chế tài mạnh, đồng thời tăng cường việc tuyên truyền để nâng cao nhận thức người dân về việc cất giữ vàng miếng tại nhà không có lợi cho quốc kế, dân sinh để tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.

Các tin khác