Lo trước, nghĩ trước

Tôi có dịp ngồi với Huỳnh Trương Phát, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh Quảng Nam. Hai anh em ôn lại những kỷ niệm để đời về trận lụt năm 1999. Trận lụt này có lẽ chỉ thua trận lụt năm Thìn (1964) về mức nước dâng, tổn thất…

Tôi có dịp ngồi với Huỳnh Trương Phát, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh Quảng Nam. Hai anh em ôn lại những kỷ niệm để đời về trận lụt năm 1999. Trận lụt này có lẽ chỉ thua trận lụt năm Thìn (1964) về mức nước dâng, tổn thất…

Huỳnh Trương Phát kể với tôi: “Lúc đỉnh cao của lũ, nước đã mấp mé đê bao hồ Phú Ninh, có thể vỡ bất cứ lúc nào, có khả năng phải phá đê bao hồ Phú Ninh để cứu dân và lúa ở các vùng khác. Vỡ hoặc phá đê cả thị xã Tam Kỳ sẽ chìm trong biển nước. Tin ấy dội đến làm cả thị xã Tam Kỳ nháo nhác. Nhà gói đồ, nhà tìm phao, nhà chạy đôn, chạy đáo tìm chỗ trú…bấn loạn, bi quan… là tâm trạng chung của tất cả người dân thị xã Tam Kỳ lúc đó”.

Thậm chí cả ông Lê Huy Ngọ, Trưởng ban Phòng chống lũ lụt Trung ương, lúc ấy có mặt trực tiếp ở vùng rốn lũ cũng không thể giấu được sự bồn chồn, lo lắng, cố tìm phương sách khác làm sao cứu cả một vùng rộng lớn của tỉnh Quảng Nam thoát lụt, ngoài việc phải phá đê bao hồ Phú Ninh.

Ông Hồ Nghinh (giữa, áo trắng) hướng dẫn Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm đại công trình thủy nông Phú Ninh. (Ảnh tư liệu) 

Ông Hồ Nghinh (giữa, áo trắng) hướng dẫn Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm đại công trình
thủy nông Phú Ninh. (Ảnh tư liệu) 
 

Nhưng cũng chính lúc đó, một con người thể hiện bản lĩnh của mình, trên hết là lòng thương dân, dám chịu trách nhiệm, hiểu rõ vị trí của một người lãnh đạo tỉnh cần làm gì.

Giữa lúc trời đang sầm sập mưa như thác đổ, gió thổi rát mặt, nước lụt mấp mé đỉnh đê bao, ông Lê Trí Tập, lúc đó là Chủ tịch tỉnh Quảng Nam, đã lên trên mặt đê chỉ đạo chống lũ. Bằng kiến thức tích tụ trong những năm làm thủy lợi trải dài khắp đất nước của một kỹ sư, sau khi quan sát chân đê và mặt đê cộng với sự tham khảo thêm tài liệu sẵn có, ông Lê Trí Tập khẳng định đê bao quanh hồ Phú Ninh không thể vỡ, cho dù nước lụt đã dâng cao sắp tràn qua mặt đê. Đã có nhiều ý kiến phản đối, rằng trước hay sau đê bao quanh hồ Phú Ninh sẽ vỡ, ý kiến trung ương cho phép phá đê, chịu lụt cục bộ.

Ông Lê Trí Tập vẫn cương quyết bảo lưu ý kiến của mình và nói một câu nổi tiếng ngay trên mặt đê khi lũ lụt đang chực trào: “Tôi chịu trách nhiệm về quyết định này để cứu dân. Còn nếu không may đê vỡ tôi cũng không ân hận mà tự hào vì được chết cùng dân…”. Cuối cùng, đúng với nhận định của ông Lê Trí Tập, đê bao hồ Phú Ninh không vỡ, cả thị xã Tam Kỳ tránh được trận lụt lịch sử trong gang tấc.

Nếu như ông Lê Trí Tập đồng ý với ý kiến của Trung ương lúc đó, cũng như ông coi trách nhiệm “tròn như hòn bi” thông qua ý kiến của Thường vụ, chỉ đạo cho cấp dưới làm, rồi nếu có thiệt hại cho dân, ông vẫn “an vị” trên vị trí Chủ tịch tỉnh. Nếu như vậy, dân sẽ không nhớ đến ông.

Nếu như so sánh với hình ảnh lãnh đạo thời nay, sau lụt mới thấy mấy ông mặc áo phao, áo bỏ trong quần, đầu đội mũ cối đi thăm dân, trao mấy thùng mì, dặn dò dăm câu. Lại có chuyện ở một huyện của một tỉnh miền Trung, giữa lúc dân đang bị lụt khốn đốn cán bộ huyện lại đi nhậu. Làm cán bộ lãnh đạo như thế, làm sao để dân tin, dân nhớ! Vì vậy, đến nay khi tôi về Tam Kỳ, nhiều người dân vẫn nhắc đến ông Lê Trí Tập với những lời trìu mến.

Tôi lại được ngồi với một nhà văn có tiếng, nhà văn này từng hoạt động chiến trường khu V, kể cho tôi nghe một câu chuyện. Giữa thời điểm chiến tranh ác liệt nhất, trong một cuộc họp, ông Võ Chí Công, lúc đó là lãnh đạo cao nhất của khu V đã nói với ông Chu Huy Mân: “Bằng mọi giá phải bảo vệ bằng được nhà văn Nguyên Ngọc và Nguyễn Chơn. Tôi với anh có làm sao, cũng không sợ lắm vì mình già rồi. Còn hai người này rất cần cho đất nước sau này…”.

Với ông Võ Chí Công, ông không hề nghi ngờ tấm lòng trung thực của những người làm công tác văn nghệ. Văn nghệ sĩ được ông cực kỳ quý mến, tạo mọi điều kiện để phát huy hết tài năng của mình. Sau năm 1975, chính ông đã ký quyết định thành lập trại sáng tác khu V để anh chị em làm công tác văn nghệ có chỗ sinh hoạt.

Điều đó giải thích, lúc đó chiến trường khu V cực kỳ ác liệt, nhưng đội ngũ văn nghệ sĩ trong khu, thực sự là một “đội quân chiến đấu” hùng hậu tấn công kẻ thù, động viên quần chúng, cổ vũ tinh thần bộ đội bằng những tác phẩm văn học, bản nhạc, bài thơ… nổi tiếng.

Một người lãnh đạo nữa của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng mà dân rất nhớ, rất thương là ông Hồ Nghinh. Tôi chưa từng tiếp xúc hầu chuyện với ông, nhưng với người dân Hội An quê tôi, hình ảnh của ông như sự hiển hiện của một “vị thánh” nhân từ. Có một thời điểm, gọi là “bài trừ mê tín dị đoan”, tất cả đình chùa miếu mạo đều bị đập, nhất là đình chùa nào ảnh hưởng từ văn hóa nước ngoài.

Mà ở Hội An quê tôi đình chùa nhiều vô kể, nhiều ngôi chùa, ngôi đền mang dấu ấn đặc thù Trung Hoa. Chủ trương của trên có rồi, người dân cũng sẵn sàng rồi nhưng chính lúc đó ông Hồ Nghinh yêu cầu dừng ngay chủ trương đó lại.

Ông nói: “Nếu chúng ta làm điều đó, có khác gì cách mạng văn hóa ở Trung Quốc. Hơn nữa, tất cả công trình đền chùa miếu mạo ở Hội An, kể cả những ngôi chùa mang dấu ấn Trung Hoa đều do bàn tay người dân Việt Nam lập lên, tài năng của người Việt Nam lập nên, đó là hồn cốt văn hóa dân tộc, nên thế phải giữ. Giữ được, sau này con cháu mới nhớ và biết ơn tổ tiên, ông bà”. Ông Hồ Nghinh còn một chủ trương sáng suốt nữa, không cho làm thủy điện cạnh khu di tích Mỹ Sơn, vì làm thủy điện như vậy sẽ dìm cả khu di tích văn hóa này trong biển nước. Không phải lúc đó không có ý kiến “Trông giống mấy lò gạch, giữ làm gì”.

Giữ được Hội An và Mỹ Sơn như hiện nay, hai địa danh trở thành “di sản văn hóa thế giới” có công lao của ông Hồ Nghinh không hề nhỏ, người dân Quảng Nam, nhất là người dân Hội An quê tôi, vô cùng biết ơn. Bây giờ về Quảng Nam, ngoài hai địa danh văn hóa nổi tiếng thế giới Hội An và Mỹ Sơn, còn phải kể đến một danh thắng nhân tạo hồ Phú Ninh.

Hồ Phú Ninh không những là một công trình chống hạn nổi tiếng, đồng thời là một thắng cảnh đẹp người dân xứ Quảng tự hào. Xuất phát từ lòng thương dân, ý tưởng xây hồ Phú Ninh ra đời. Xây dựng hồ Phú Ninh trong những ngày đầu đất nước vừa ngưng tiếng súng, tiếng bom phải nói là quyết định hết sức táo bạo, sự nhìn xa trông rộng của những vị lãnh đạo, tiêu biểu là ông Hồ Nghinh.

Người dân nhìn vào người lãnh đạo không phải với những bộ áo quần chỉn chu, những bài phát biểu vung tay, tròn mồm mà phải bằng hành động thực tế có thực sự “ TRỌNG” dân hay không, để dân thương, dân nhớ.

Các tin khác