Dân là gốc nước, Tổ quốc là thiêng liêng

(ĐTTCO) - LTS: Năm 1788, vua Trung Hoa Càn Long cử Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân Thanh sang xâm chiếm nước ta.
 Lúc ấy, Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, đã dấy lên phong trào khởi nghĩa chống ngoại xâm thu hút đông đảo nông dân, sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ. Trong trận quyết chiến cuối cùng, chỉ trong vòng 6 ngày quân Tây Sơn đã đánh tan tành 29 vạn quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung tiến vào thành Thăng Long trong sự chào đón nồng nhiệt của nhân dân, mở ra kỷ nguyên đất nước độc lập, đặt quốc hiệu tên nước Việt Nam.
Chiến công lịch sử của Quang Trung Nguyễn Huệ là nhờ tập hợp được đông đảo nhân sĩ trí thức xuất sắc đương thời, học cao hiểu rộng, xem thường danh lợi; trong đó nổi bật là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp. Ngoài mưu lược quân sự, các vị còn có công cải tổ giáo dục, văn hóa, nội trị  để góp phần chấn hưng đất nước. Nguyễn Thiếp khuyên vua nguyên lý quản trị: “Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên”.
Không màng công danh, một lòng vì nước

Vào nửa sau thế kỷ thứ 18, triều đình phong kiến nước ta bước vào suy vong với sự tranh chấp của các thế lực Đàng Ngoài (vua Lê, chúa Trịnh) - Đàng Trong (Nguyễn Ánh), triều đình mục ruỗng, lòng dân ly tán. Ở Đàng Ngoài, năm 1782 Trịnh Sâm mất, kiêu binh phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên ngôi chúa với mưu đồ làm chính biến lật đổ vua Lê để lên ngôi.

Năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, ồ ạt tiến quân ra Bắc, bắt sống Trịnh Tông, trả ngôi vua cho nhà Lê. Sau đó, Nguyễn Huệ rút đại quân về Nam, phe đảng họ Trịnh lại nổi lên, Trịnh Bồng lên ngôi chúa, tiếp tục gây nhiễu loạn triều chính, đẩy lương dân vào cuộc sống bần hàn một cổ hai tròng. Năm 1787, tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm được lệnh cầm quân ra Bắc dẹp loạn, chính thức xóa hẳn triều đại vua Lê - chúa Trịnh. Nhưng nhà Lê vẫn chưa chịu “bó tay” với vị thế hư danh của mình.
Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang Trung Hoa cầu viện, rước quân Mãn Thanh kéo sang dày xéo Đại Việt với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê. Lịch sử đất nước bước sang trang mới: Không còn là cuộc chiến nội bộ, tranh giành thế lực trong nước mà trở thành cuộc chiến chống ngoại xâm, đối mặt với đội quân vô cùng hùng mạnh lúc bấy giờ! Trước tình thế đất nước nguy nan, vị anh hùng áo vải Tây Sơn đã xem an nguy xã tắc,  sự tồn vong của Tổ quốc là trên hết; đã ra sức chiêu hiền đãi sĩ, chiêu mộ anh tài. Nguyễn Thiếp (tên hiệu là La Sơn Phu tử) sinh năm 1723, là một trong số đó. Ông là người học rộng tài cao, thuộc dòng danh gia vọng tộc ở xứ Nghệ, được mời ra Thăng Long nhậm chức. Ông làm quan triều Lê nhưng thấy thế đạo suy vi, nhân tâm phân hóa, một thời gian sau cáo từ về quê, lên núi Thiên Nhẫn dạy học và sống thanh nhàn, không nhận bất cứ chức tước hoặc bổng lộc nào của triều đình.
 Theo Ngô Thì Nhậm, một người thông minh phải biết tuân theo đạo, biết giữ đúng đạo trời thì mới mong không vướng vào mê loạn. Ông rất coi trọng việc con người giữ đúng đạo, là để làm tốt bản thân, xa lìa danh lợi; còn giúp ích được kẻ khác. Trong tư tưởng của mình, Ngô Thì Nhậm coi liêm sỉ là một trong những đức tính không thể thiếu được ở con người. Thiếu liêm sỉ, con người sẽ trở nên mù quáng trong hành động, từ đó dễ rơi vào vòng mê muội trong cách đánh giá sự việc. Ông khuyên con người luôn phải giữ đúng đạo và liêm sỉ để sáng suốt về nhận thức, không làm trái quy luật khách quan.
Cao Xuân Huy - Thạch Can
(Chủ biên Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm)
Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc chinh phạt có 3 lần viết thư cùng lễ vật mời Nguyễn Thiếp giúp mình, lời lẽ rất thống thiết: “Nay thiên hạ đại loạn như thế này, sinh dân khổ mà Phu tử nhất định ẩn không ra, thì sinh dân thiên hạ làm sao. Mong Phu tử nghĩ đến thiên hạ, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có thầy mà cậy, ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra kẻ giỏi…”.
Tháng 6-1788, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc dẹp loạn lần thứ hai, khi đến Nghệ An nhờ người mang thư mời Nguyễn Thiếp đến hội kiến, lần này ông mới đồng ý, cùng bàn luận những kế sách xoay chuyển tình thế đất nước.

Ngô Thì Nhậm (sinh năm 1746 tại Hà Tây), là một nhân vật lỗi lạc khác, văn võ kiêm toàn. Sau khi đỗ tiến sĩ, Ngô Thì Nhậm được chúa Trịnh tin dùng nhưng vào năm 1782 khi Trịnh Sâm mất, triều chính rối ren. Không làm gì được trước tình thế bất an, ông xin về quê vợ ở ẩn khi mới 36 tuổi.
Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, nhanh chóng bộc lộ là một vị anh hùng tài năng, khí phách đã thu phục được Ngô Thì Nhậm. Hai người gặp nhau như sự tương ngộ giữa kẻ anh hùng và người trí thức lỗi lạc. Sau đó vua Quang Trung đã phong ông làm Tả thị lang Bộ Lại, phụ trách toàn bộ việc tổ chức và các bộ trong triều chính.

Để huy động lực lượng trí thức có đức có tài về với vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã soạn “Chiếu cầu hiền” cho vua - là công văn nhà nước lệnh cho thần dân thực hiện. Văn bản chính trị này không những kêu gọi các bậc hiền tài ra giúp nước, mà còn tỏ rõ lòng khát khao của vị vua trẻ “áo vải cờ đào” trong sứ mệnh tiêu diệt quân Thanh, giữ yên bờ cõi, nhờ đó đã huy động được số đông trí thức, hiền tài cống hiến vì sứ mệnh quốc gia.

Phan Huy Ích (sinh năm 1751 tại Hà Tĩnh) là một tài năng xuất chúng khác, là con của tiến sĩ Phan Huy Cẩn, mới 20 tuổi đỗ đầu khoa thi Hương (giải Nguyên), năm 24 tuổi đỗ Hội nguyên Tiến sĩ, từ đó vươn lên nhiều chức trách ở phủ chúa Trịnh. Năm 1780 dòng tộc họ Trịnh âm mưu chính biến không thành, ông và một số quần thần khác bị truy bức. Phan Huy Ích chán nản, cáo bệnh xin từ quan nhưng không được, bèn đóng bè ở dưới sông, xa lánh quần thần, mỗi tháng chỉ đến công đường một lần.
Năm 1787 khi quân Tây Sơn kéo quân ra Bắc, Phan Huy Ích lập tức về Sài Sơn ở ẩn. Tháng 5-1788 Nguyễn Huệ ra Bắc, xuống chiếu cầu hiền. Phan Huy ích cùng Ngô Thì Nhậm, Đoàn Nguyên Tuấn, Nguyễn Thế Lịch… cùng nhiều hiền tài khác ra hợp tác với Tây Sơn. Phan Huy Ích được phong làm Tả thị lang Bộ Hộ, phụ trách công việc ngoại giao.

Sau cuộc chiến thần tốc đại phá quân Thanh vào mùa Xuân năm Kỷ Dậu, Quang Trung tuyên bố: “Ta đã quét sạch quân Thanh, nhưng nước Thanh lớn hơn ta cả chục lần, bị thua tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ binh lửa liên miên, ắt không hạnh phúc cho dân, lòng ta sao nỡ. Vì vậy, sau thắng trận ta phải “dùng ngọn bút thay giáp binh”. Đợi mười năm sau ta đủ thì giờ gây dựng nước giàu dân mạnh thì ta có sợ gì nó”.
Cũng chính vì điều này, đầu năm 1790 Phan Huy Ích cùng Đại tư mã Ngô Văn Sở trong phái đoàn đóng giả vua Quang Trung đã sang Trung Quốc mừng vua Càn Long 80 tuổi. Phái đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, về nước Phan Huy Ích được thăng Thượng thư Bộ Lễ.Không sợ quân địch, không chịu cúi lòn
Năm 1788 do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang xâm chiếm Đại Việt. Trước thế mạnh của địch, Ngô Thì Nhậm chủ trương lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình), làm nản lòng kẻ địch muốn đánh nhanh cũng không đánh được. Đây là sách lược mưu trí của Ngô Thì Nhậm, khác với các tướng khác chỉ muốn đánh (Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân) hoặc mai phục để đánh như người xưa (Nguyễn Văn Dụng). So sánh lực lượng cả hai bên, hoàn cảnh thực tế lúc ấy, Ngô Thì Nhậm cho rằng “toàn quân rút lui không bị mất một mũi tên, cho nó ngủ trọ một đêm rồi hãy đuổi đi” (theo sách Hoàng Lê nhất thống chí). Sách lược rút lui của Ngô Thì Nhậm rất phù hợp với tình thế lúc đó, được Quang Trung đánh giá cao, nhận xét: “Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục. Thành Thăng Long bốn mặt đều là chiến trường, không có chỗ nào hiểm trở có thể giữ vững được, các ngươi xoay xở làm sao được. Khi đem toàn quân tạm tránh mũi nhọn của giặc, trong thì khích lệ lòng căm thù của quân sĩ, ngoài thì tăng lòng kiêu căng của giặc. Đó là kế nhử giặc” (Đại Nam chính biên liệt truyện). Chính điều này đã tạo điều kiện, thời cơ vô cùng quan trọng để Quang Trung đánh bại quân Thanh sau đó. Trong trận chiến quyết định đánh đuổi quân xâm lăng, ngày 22-12-1788 Quang Trung cất đại quân ra Bắc, ngày 26-12 tới Nghệ An, vua cho người mang thư mời La Sơn Phu tử đến bàn kế sách đánh địch. - Lê Chiêu Thống sang nhà Thanh cầu lụy, vua Thanh cho quân sang đánh, trẫm sắp đem quân ra chống cự. Mưu đánh và giữ nước được hay thua, Phu tử nghĩ thế nào? - Vua Quang Trung hỏi Nguyễn Thiếp. -  Quân Thanh ở  xa tới, tướng soái đang huênh hoang tự đắc. Chúng không biết quân ta yếu hay mạnh, binh lương và trận chiến xảy ra thế nào, còn quân lính thì phân vân. Số quân của Hoàng đế kéo từ miền Trong ra chưa đủ để chống đối với quân giặc, vậy phải tuyển mộ ngay quân lính ở đất Thanh Nghệ. Nơi này là đất thượng võ xưa nay, anh hùng hảo hán cũng nhiều - Nguyễn Thiếp trả lời. Khi Quang Trung hỏi về chiến thuật chiến trường, Nguyễn Thiếp hiến kế: “Quân Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào, có bụng khinh địch. Nếu cho đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn thì khó lòng mà được”. Diễn biến trận quyết chiến chống quân Thanh đúng như dự kiến: Chỉ trong vòng 6 ngày quân Tây Sơn đã đánh tan tành 29 vạn quân Thanh. Đúng trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), đại quân chiến thắng Quang Trung đã tiến vào thành Thăng Long. Trong bức thư gửi Nguyễn Thiếp sau đó, vua Quan Trung bày tỏ: “Trẫm ba lần xa giá Bắc thành, Phu tử đã chịu ra bàn chuyện thiên hạ. Người xưa bảo rằng: Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ, lời Phu tử hẳn có thế thật”. Sau khi quân Thanh bị đánh thua tan tác, vua Quang Trung rút về Phú Xuân, giao Ngô Thì Nhậm ở ngoài Bắc trấn giữ và toàn quyền việc đối ngoại với nhà Thanh, cả trong ngoại giao và giao dịch các văn bản ông luôn thể hiện tính cương quyết nhưng linh hoạt, nêu cao chủ quyền dân tộc, vừa giữ sự hòa hiếu giữa hai nước. Ngô Thì Nhậm có hai lần làm chánh sứ sang giao thiệp với nhà Thanh. Năm 1790, vua Quang Trung bổ nhiệm Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ Thượng Thư nhưng vẫn là người chủ trì chính sách ngoại giao với Trung Hoa. Trong một lần khi cầm đầu phái bộ của ta sang Trung Quốc, lúc tiến vào cửa Sứ quán, thấy hàng chữ đề “An Nam di sứ Công quán” (Công quán của Sứ bộ xứ man di An Nam), Ngô Thì Nhậm không chịu vào, nói: “Ta không phải đại diện cho một xứ man di, nên không vào chỗ ấy”. Quan đón tiếp nhà Thanh nói chữa, rằng đối với Trung Quốc thì tất cả các nước đều man di. Ngô Thì Nhậm bèn nói: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Phải chăng đại quốc là mọi rợ khác?”. Nhà Thanh đành phải sửa lại cái biển thành “Nam quốc Sứ quan Công quán”, lúc ấy Ngô Thì Nhậm mới chịu dẫn đoàn ngoại giao nước ta bước vào.
Dân là gốc nước, Tổ quốc là thiêng liêng ảnh 1 Văn Miếu Quốc Tử Giám, nơi vinh danh các tiến sĩ khoa bảng có công với dân tộc. 
Xem trọng nghĩa khí, coi nhẹ quan trường
Sau khi đánh thắng quân Thanh, La Sơn Phu tử trở thành một trong những vị học giả được vua Quang Trung tin cậy rất cao. Ngay tại khoa thi Hương đầu tiên dưới triều đại Quang Trung, Nguyễn Thiếp được đề cử làm Chánh chủ khảo. Trong việc trị nước, ông dâng lên vua Quang Trung bản tấu, nêu 3 vấn đề: Một là Quân đức (khuyên vua nên theo gương thánh hiền trong ứng xử), hai là Dân tâm (lấy đạo đức thu phục lòng người), ba là Học pháp (chăm lo việc giáo dục), với quan niệm “dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên”. Sau khi giúp vua Quang Trung giành thắng lợi, Nguyễn Thiếp lại lui về núi Thiên Nhẫn ở ẩn, không chịu ở kinh thành. Tháng 8-1791, vua Quang Trung cho xây dựng Viện Sùng Chính tại núi Nam Hoa, nơi trường cũ của Nguyễn Thiếp. Vì vậy, ở đây ông không phải rời nơi ở ẩn mà vẫn có điều kiện thi thố sở học của mình, đề ra các chính sách cải cách văn hóa, giáo dục. Công việc của Viện Sùng Chính có ý nghĩa rất lớn trong việc chấn hưng giáo dục của nhà Tây Sơn: Mở rộng giáo dục toàn diện, học cả văn và võ, đề cao chữ Nôm, đưa chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của nước ta… Điều oan khiên của lịch sử là triều vua Quang Trung ngắn ngủi. Sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã xử tàn bạo những người theo Tây Sơn. Các danh tướng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng… đều bị hành hình. Riêng Nguyễn Thiếp, Nguyễn Ánh có lòng kính trọng, ngỏ ý mời ra giúp mình. Nguyễn Thiếp đã từ chối, cáo từ về sống ẩn dật, không nhận bất cứ lễ vật nào và mất năm 1804 tại quê nhà. Ngô Thì Nhậm có số phận bi đát hơn. Ông làm quan dưới triều vua Quang Trung 5 năm thì vua mất - sự mất mát quá sớm không gì bù đắp được. Vua mới Quang Toản còn ít tuổi, công việc triều chính bị Bùi Đắc Tuyên, cậu ruột của vua nắm hết, nhà Tây Sơn bước vào giai đoạn suy vong. Ngô Thì Nhậm vẫn giữ vẹn tấm lòng son sắt, luôn tìm mọi cách củng cố triều chính nhưng bất lực, bèn tìm lối thoát với đạo giáo.
Ông lập Thiền viện Trúc Lâm, đứng trên quan điểm Nho giáo để phát huy mặt yêu nước, yêu dân tộc của Trúc Lâm Yên Tử đời Trần, nhưng số phận của ông vẫn không yên. Nguyễn Ánh sau khi chiếm miền Nam đã kéo quân ra miền Bắc tiêu diệt triều đại Tây Sơn. Các danh sĩ Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn bị mang ra đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803; tên trên văn bia tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám cũng bị đục bỏ đi.

Việc Ngô Thì Nhậm bị đòn thù ở Văn Miếu còn phát xuất từ câu chuyện khác. Chủ trì cuộc đánh phạt đòn là Đặng Trần Thường, lúc này giữ chức Phó Tổng trấn Bắc Thành. Xưa kia, lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin tiến cử. Khi trông thấy vẻ khúm núm, không có phong thái kẻ sĩ, Ngô Thì Nhậm bảo Thường: “Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác”. Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi vào Nam phò Nguyễn Phúc Ánh. Nhớ mối nhục năm xưa, Đặng Trần Thường ra vế đối cho Ngô Thì Nhậm:
“Ai công hầu, ai khanh tướng.
Vòng trần ai, ai dễ biết ai”.
Lúc này Ngô Thì Nhậm vẫn không khuất phục, khẳng khái đáp lại:
“Thế Chiến quốc, thế Xuân thu
Gặp thời thế, thế thời phải thế”.
 Đặng Trần Thường tức giận, sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông. Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị roi độc thì sống, còn Ngô Thì Nhậm ngấm độc phải chết, lúc mới 57 tuổi. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngô Thì Nhậm hội tụ toàn vẹn những phẩm chất của một người tri thức uyên thâm, đã có những cống hiến lớn lao cho đất nước trên mọi lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao, văn học, triết học… Ông đã để lại một di sản đồ sộ, trên 600 bài thơ, 15 tác phẩm.

Số phận quan trường của Phan Huy Ích cũng ngắn ngủi. Sau khi có những cống hiến xuất sắc trên mặt trận ngoại giao, thiết lập lại được mối giao hảo với Mãn Thanh, năm 1792 Phan Huy Ích được thăng chức Thị Trung Ngự Sử. Ông chưa kịp vui thì vua Quang Trung qua đời, nội bộ Tây Sơn mất đoàn kết ngày càng nghiêm trọng, ông tìm vui trong thi phú văn chương với việc hoàn chỉnh bản dịch Chinh phụ ngâm, sáng tác Dụ Am thi văn tập, Dụ Am ngâm lục.
Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, sau trận đòn của Đặng Trần Thường ở Văn Miếu, ông về Sài Sơn ở ẩn, mở trường dạy học. Tại đây, Phan Huy Ích tỏ rõ là một nhà giáo tài ba, được môn sinh và người đương thời rất kính phục.

Phan Huy Ích mất năm 1822, để lại cho đời khá nhiều tác phẩm có giá trị. Các nghiên cứu mới đây cho rằng lâu nay nhiều người vẫn lầm tưởng quốc hiệu Việt Nam xuất hiện dưới thời vua Gia Long vào năm 1804, nhưng nhiều tài liệu lịch sử mới phát hiện chứng minh khác: Các nhà nghiên cứu đã tìm ra 12 tấm bia niên đại thế kỷ 17-18 có khắc hai chữ Việt Nam, một bản in khắc gỗ năm 1752 cũng có từ Việt Nam. Một số tác phẩm cổ cũng dùng chữ Việt Nam như cuốn Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc (đời Trần) và cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (thời Lê)…
Một tài liệu khác cho biết vào năm Nhâm Tý (1792), thời vua Quang Trung, Phan Huy Ích có phụng mệnh vua soạn thảo “Tuyên cáo đặt mới quốc hiệu” (trong bộ sách Dụ Am văn tập) để vua ban, đã viết: “Trẫm nối theo nghiệp cũ, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn. Xem qua sổ sách, tuần xét núi sông, nên đặt tên tốt để truyền lâu dài. Nay ban đổi tên nước là Việt Nam, đã báo sang cho Trung Quốc biết rõ. Từ nay trở đi, cõi viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền. Vậy bá cáo rộng khắp để mọi người đều biết. Nay chiếu”.

Như vậy, căn cứ vào sử liệu, có thể chứng minh cụm từ Việt Nam đã có từ lâu - ít nhất từ thế kỷ 14, và đã chính thức trở thành quốc hiệu nước ta năm 1792 dưới đời vua Quang Trung, nhà Tây Sơn.

Các tin khác