Câu hát người xa đất mẹ

Mỗi lần ngồi chuyện vãn với bà con người Việt sống ở Hoa Kỳ, Pháp và Australia, tôi rất thích nghe lại những kỷ niệm của các vị về quê hương Việt. Có thể đó là những ngày thơ bé, có khi là những chặng sống của tuổi đã trưởng thành.

Mỗi lần ngồi chuyện vãn với bà con người Việt sống ở Hoa Kỳ, Pháp và Australia, tôi rất thích nghe lại những kỷ niệm của các vị về quê hương Việt. Có thể đó là những ngày thơ bé, có khi là những chặng sống của tuổi đã trưởng thành.

Trước 1945, trước 1954, trước 1975 hay trước đây mươi năm, dăm năm... Mỗi người một cảnh ngộ, một thời thế nhưng những gì của quê hương xứ sở lắng vào lòng người xa nước bao giờ cũng cảm động. Tình cảm của người này đánh thức tình cảm của người kia. Thắm thiết, yêu thương, xót xa, cay đắng, hài hước... Đủ thứ tình. Khác nhau lắm. Nhưng không ai muốn tranh luận mà chỉ muốn lắng nghe. Nghe để hiểu nỗi người mà cũng để hiểu nỗi mình.

Ở tuổi tôi, ngày Cách mạng Tháng Tám, lên 5, chỉ nhớ vài hình ảnh người chết đói ngay trước cửa nhà mình, người dân ào ào gậy gộc, quang thúng đi cướp chính quyền, phá kho thóc huyện Quỳnh Côi. Kháng chiến chống Pháp, ấn tượng những đêm tản cư, ngồi trong thúng chú bác gánh đi hay mảnh chiếu quàng lưng tự đi bộ theo người lớn. Năm 1954, tin ta thắng, Pháp thua ở Điện Biên Phủ dội về Hà Nội. Ngày hiệp định Genève, chợ trời Hà Nội mở quanh hồ Thiền Quang. Người di cư, người tập kết. Đất nước cắt chia nhưng lại có sự hòa trộn khổng lồ các khối dân cư. Nam trộn vào Bắc, Bắc trộn vào Nam. Các thời khác chưa từng có.

Vào tuổi lớn, tôi hay ngẫm nghĩ những cái quên cái nhớ vặt vãnh của đời người. Nó như những sợi tơ mỏng mảnh, sợi nọ gặp sợi kia, ngang dọc ngẫu nhiên mà dệt nên cuộc đời. Bảo quen cũng là quen. Ai mà chẳng đã trải qua. Bảo lạ cũng là lạ. Cứ nghe rồi ngẫm nghĩ, mình lạ cả chính mình. Cùng là dân Việt, cùng ở xứ người nhưng ngả đi ngả đến mỗi người mỗi khác. Trong các cuộc trò chuyện hàn huyên với những bạn viết văn đã đứng tuổi ở xứ người, tôi có cảm giác người nào cũng có ý làm mờ đi những khác biệt của mình. Người ta tránh nói đến tôn giáo và chính trị mà thường gợi tới những nét chung mọi người cùng có. Đó là những kỷ niệm tuổi nhỏ, tết nhất, quê làng... Chuyện chính trị chính em dễ gây tranh luận, mất vui. 

Những lúc ngồi ôn chuyện xưa, tôi lại nhớ anh Nguyễn Bá Trạc, bây giờ đang ở Phần Lan. Anh làm thơ, không nhiều. Đọc tập Ngọn cỏ bồng, xuất bản ở Califonia năm 1985. Tôi thấm nét buồn thanh nhẹ, chơi vơi không đầu không cuối trong tâm hồn con người xa xứ ấy. Anh có bài thơ lục bát Sáu cái ly nói nỗi cô đơn thật tiêu tao, độc đáo, nhẹ như không mà lưu mãi bên lòng: Những hôm lòng sáng như trời/ Tâm hiền như bụt, miệng cười như hoa/ Một mình với một ấm trà/ Ngồi ở trong nhà với sáu cái ly.

Tôi đã được gặp Trạc khi anh về San Jose, Hoa Kỳ thăm con gái. Bảy mươi rồi. Nhưng dáng cao, lưng thẳng, tóc hoa râm cắt ngắn, trông còn thanh niên lắm. Anh hỏi tôi ngay khi gặp: “Ở Hà Nội anh ở phố nào? Trước 1954 tôi ở ngõ Tức Mặc”.

“Ngõ Tức Mặc” - tôi sửng sốt nói như reo: “Tôi cũng ở cái ngõ ấy, gần ga Hàng Cỏ, từ năm 1950 đến 1970”. Rồi tôi đứng lặng cố hình dung xem trong đám bạn lau nhau của tôi khi ấy, đứa nào là ông Trạc đây. Chịu, không tìm ra. Cái ngõ khi ấy còn là đường đất, chạy thẳng từ phố Nhi (phố Phan Bội Châu) vào, có hai nhánh rẽ ngang gọi là ngõ ngoài và ngõ trong. Ngõ ngoài có dãy hoàng lan cao vút đứng trước dãy nhà ba tầng. Phía bên kia là dãy một tầng.

Trạc ở gian gác đầu dãy ba tầng. Tôi nhắc đến những nhân vật trong ngõ: Cụ bác sĩ Trần Văn Lai, gánh phở bà Chung và nhất là mấy cây hoàng lan. Trạc nhớ hết, phụ họa thêm nhiều chi tiết. Trạc nhắc tên những đứa bạn tuổi nhỏ. Trạc nói anh đã gặp họ từ chuyến về năm 1978. Trạc nói: “Minh đi bộ đội, chết ở miền Nam. Em trai của Minh là Quyên đã đưa Trạc đi tìm bạn cũ và thăm phố phường Hà Nội năm 1978. Lúc đó Hà Nội không khác hồi 1954 bao nhiêu”.

Trạc kể anh đi ô tô từ Sài Gòn ra. Đến Hà Nội lúc nửa đêm. Anh ngủ lại tại một nhà trọ bến xe. Chưa sáng đã dậy, lọ mọ ra nhìn đường. Trời Hà Nội cuối năm sương giăng mù mịt. Anh cứ đi và nhận ra cái hồ gần đấy là hồ Thiền Quang. Bờ phía Bắc hồ này năm 1954 là chợ trời lập vội bày bán bát đĩa, giường tủ, áo quần... của các gia đình sắp “dô Nam”. Bờ Nam bên kia là dãy hàng cơm lợp tranh lụp xụp, đêm thắp đèn dầu, khách ăn là các ông xích lô, ba gác, dân ve chai đồng nát.

Con đường phía đó còn trải đá, xe bò đi lộc cộc. Sau lưng là hồ Bảy Mẫu, ao rau muống, bãi đổ rác và khu nhà Viện trợ Mỹ Vân Hồ. Đường phố mới sáng nhọ mặt người, Trạc lần mò đi như người mộng du. Đây phố Trần Hưng Đạo. Nhà Đấu Xảo. Cái ngõ nhỏ Tức Mặc đây rồi. Dãy hoàng lan cổ thụ, vòm lá cao sẫm tối. Trạc tiến đến cây hoàng lan trước căn nhà xưa. Anh đưa hai bàn tay dọc thân cây như vuốt ve một thằng bạn cũ. Anh bỗng rùng mình, thấy lạnh người, khi nhận ra cái đinh to anh đã đóng vào thân cây khi rời Hà Nội. Cái đinh vẫn đây. Đúng nó. Anh muốn ứa nước mắt. Năm tháng ra đi không trở lại, chỉ cái đinh này vẫn chờ anh.

Nỗi nhớ quê hương luôn ám ảnh những người con xa xứ.

Nỗi nhớ quê hương luôn ám ảnh những người con xa xứ.

Học xong khóa học Trường Quốc gia hành chính, anh đi làm ở sở thuế Mỹ Tho. Nghề thuế không túng thiếu. Anh nhởn nhơ làm thơ, đăng thơ. Rồi lấy vợ, sinh con. Anh được cử sang Hoa Kỳ tu nghiệp năm 1974. Từ năm 1975, anh không còn học bổng, rời trường, tự kiếm sống. Vợ con còn ở trong nước, anh bảo lãnh cho vợ con sang.

Nhưng anh không còn là con người sống trên đất mẹ. Anh thành người phiêu bạt: Những mái nhà xa những mái nhà/ Những mái nhà không phải của ta/ Nhìn trong một sáng mùa thu lạnh/ Ta thấy ngoài kia những mái nhà/ Những mái nhà xa những mái nhà/ Những mái nhà không phải của ta/ Đứng chơi giữa một mùa thu lạnh/ Ta ngắm nhìn xem những mái nhà.

Anh tự nhận mình không dính vào sự kiện chiến tranh nào. Không đi lính mà làm thuế. Tháng tư năm 1975 anh học ở Hoa Kỳ, sau đó đi Nga, đi Đông Đức, Tây Đức. Không dính vào cuộc chiến nhưng đời anh đích thị là hệ quả của cuộc chiến. Vì nó mà anh từ Bắc vào Nam. Vì nó mà anh xa xứ, hết định cư Hoa Kỳ lại chuyển cư Phần Lan. Nỗi nhớ quê Việt lẫn vào hoài niệm tuổi thơ, ngày càng xa lắc.

Tôi nhận ra trong thơ anh, cái ngọn cỏ bồng phiêu bạt ấy có những cơn điên đầu thật. Ngay như cái điệp khúc Những mái nhà, (...)/ Những mái nhà không phải của ta đã như một ấn tượng, anh không định mà thành, ám ảnh cả đời anh, chất chứa nỗi lòng, như một ai đó đã bình luận: đầy hoang mang, nhớ nhung, hy vọng.

Các tin khác