Phát triển kinh tế - xã hội 2017

Thách thức mục tiêu tăng trưởng

(ĐTTCO) - Theo dự báo, năm 2016 tăng trưởng GDP chỉ có thể ở mức 6,3-6,5%, không đạt mục tiêu đề ra 6,7%. Theo nhiều chuyên gia, dù không đạt kế hoạch nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đối mặt nhiều khó khăn, mức tăng trưởng ước thực hiện năm 2016 có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, điều quan trọng, thách thức hơn cả là Chính phủ sẽ phải làm như thế nào để năm 2017 cũng như các năm tiếp theo, GDP tăng trưởng nhanh và bền vững hơn.

(ĐTTCO) - Theo dự báo, năm 2016 tăng trưởng GDP chỉ có thể ở mức 6,3-6,5%, không đạt mục tiêu đề ra 6,7%. Theo nhiều chuyên gia, dù không đạt kế hoạch nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đối mặt nhiều khó khăn, mức tăng trưởng ước thực hiện năm 2016 có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, điều quan trọng, thách thức hơn cả là Chính phủ sẽ phải làm như thế nào để năm 2017 cũng như các năm tiếp theo, GDP tăng trưởng nhanh và bền vững hơn.

Bối cảnh bất lợi

Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2017, hầu hết tổ chức quốc tế đều dự báo kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi với tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn 2016. Theo đó, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2017 tăng 3,4% (năm 2016 là 3,1%), Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng 2,8% (năm 2016 là 2,4%).  

Năm 2017, tăng trưởng 6,3% hay 6,7% không quan trọng bằng chất lượng tăng trưởng. Chẳng hạn, tái cơ cấu chúng ta nhìn đúng, nhưng thực hiện chưa tốt, nên hiệu quả chưa cao. Năm 2017 và 2018, theo tôi nên đặt chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng GDP 6-6,2% và hoàn thành việc tái cơ cấu một cách hiệu quả nhất.

Ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế

Tăng trưởng thương mại thế giới dự báo tăng 1,8-3,1%. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn ra ở hầu khắp châu lục, là cơ hội cho các nước đang phát triển, tiếp thu công nghệ tiên tiến, nhưng đồng thời cũng tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các khu vực và nền kinh tế. Ở trong nước, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát sẽ tạo môi trường thuận lợi cho phát triển. Những nỗ lực của Chính phủ trong việc thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp sẽ tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng…

 Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên, Chính phủ cũng cho rằng những biến động lớn của kinh tế thế giới dự báo sẽ có nhiều tác động tới nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là sự kiện Brexit và sự suy giảm tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, xu hướng tăng giá của đồng USD sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu nước ta. Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) khó có thể được thông qua trong năm 2016. Trong khi đó, ở trong nước, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật sự vững chắc, cơ sở hạ tầng yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, Chính phủ dự kiến GDP năm 2017 tăng 6,7%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 6-7%; tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 3,5%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) không vượt quá 3,5% GDP; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 31,6% GDP; tỷ suất tiêu hao năng lượng trên một đơn vị GDP giảm 1,5%...

Đẩy mạnh tái cơ cấu

Một trong những giải pháp quan trọng được Chính phủ đưa ra để thúc đẩy tăng trưởng bền vững, hiệu quả năm 2017 và các năm tới, là đẩy mạnh tái cơ cấu, gồm đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM); doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.  

Tái cơ cấu đầu tư công phải làm nhiều việc, như sắp xếp lại các dự án đi đúng mục tiêu, trọng điểm, cấp bách. Cùng với đó phải làm sao vốn NSNN 2 triệu tỷ đồng (trong giai đoạn 2016-2020) như vốn mồi, đầu tư vào những lĩnh vực tư nhân hay xã hội không làm, cùng với đó tạo hành lang chính sách mạnh mẽ hơn để thu hút nguồn lực xã hội. Trong tái cơ cấu đầu tư, số vốn của Nhà nước càng ngày càng tăng nhưng tỷ trọng vốn ngân sách trong tổng mức đầu tư toàn xã hội phải giảm xuống.

Ông Đinh Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Tài chính

Đề cập cụ thể về các giải pháp tái cơ cấu, theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Chính phủ sẽ nghiên cứu và xây dựng đề án tái cơ cấu đầu tư công. Trong đó, sẽ quản lý chặt chẽ các khâu, từ chuẩn bị, quyết định chủ trương đầu tư, bố trí vốn, đấu thầu, thi công, giám sát, thanh quyết toán công trình; không quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án mới khi chưa cân đối đủ nguồn vốn thực hiện; bảo đảm bố trí vốn tập trung, khắc phục tình trạng dàn trải, kém hiệu quả.

 Trong tái cơ cấu hệ thống NHTM, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ; tập trung xử lý các NHTM yếu kém theo các đề án được phê duyệt bằng các giải pháp thích hợp; thực hiện tái cơ cấu Công ty Quản lý tài sản (VAMC) nhằm xử lý nợ xấu theo cơ chế thị thường. Đối với tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bên cạnh đẩy nhanh quá trình thoái vốn, cổ phần hóa, thu hẹp lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ, sẽ thành lập cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với DNNN và vốn nhà nước tại doanh nghiệp; thực hiện phá sản đối với các DNNN theo quy định của pháp luật.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, kết quả đánh giá định lượng cho thấy, việc thực hiện quyết liệt hoặc đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn tới đều mang lại những tác động tích cực cho nền kinh tế và mô hình tăng trưởng, như làm gia tăng mạnh tốc độ tăng trưởng GDP, kìm giữ lạm phát, giảm thâm hụt NSNN, gia tăng hiệu quả đầu tư và góp phần chuyển đổi mô hình kinh tế. 

Đánh giá về vấn đề tái cơ cấu, chuyên gia kinh tế Trần Hoàng Ngân cho rằng đề án tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã đề cập sâu về việc phân bổ nguồn lực. Bởi khi phân bổ nguồn lực tập trung vào những địa phương có năng suất lao động cao, lĩnh vực có tiềm năng sẽ đem lại sự tăng trưởng kinh tế, tránh tình trạng đã xảy ra trước đây là đầu tư công lớn, nợ công tăng nhanh nhưng kinh tế tăng trưởng chậm. Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), để tăng trưởng cao, bền vững cần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, đặc biệt là hiệu quả đầu tư nhà nước.

Theo đại biểu Quốc hội Lê Thanh Vân (Cà Mau), niềm tin của doanh nghiệp đã quay trở lại với những kỳ vọng về Chính phủ mới. Tuy nhiên, để niềm tin đó củng cố, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng, Chính phủ cần cơ cấu lại nguồn nhân lực. Đó là điểm quan trọng cần phải nhìn nhận nghiêm túc, bởi việc cải cách của Chính phủ sẽ khó khăn khi không có bộ máy thực thi chất lượng. Nếu bộ máy hành chính chưa được cải thiện sẽ khó thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển “chưa kịp lớn đã còi cọc”. “Chính phủ đang đối mặt với rất nhiều khó khăn để thúc đẩy tăng trưởng khi tài nguyên khai thác cạn kiệt, vốn gần như không còn nhiều, chỉ còn yếu tố con người. Nếu có đề án cấu trúc lại nguồn nhân lực, đây là khâu đột phá quan trọng và cần thiết phải có luật về trọng dụng nhân tài” - đại biểu Vân nói.

Xu hướng tăng giá của đồng USD ảnh hưởng đến xuất khẩu của nước ta, sẽ tác động đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ảnh: LONG THANH

Xu hướng tăng giá của đồng USD ảnh hưởng đến xuất khẩu của nước ta,
sẽ tác động đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ảnh: LONG THANH

Phải quyết tâm thay đổi

Theo đại biểu Quốc hội Dương Quang Thành (Hà Nội), năm 2017, bên cạnh những khó khăn, thách thức Chính phủ đã nêu còn một vấn đề có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất. Thí dụ cải cách thể chế không theo kịp nhu cầu sản xuất. Chính phủ đề xuất sửa các luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh nhưng đã không đủ điều kiện trình, nên năm 2017 khi những bất cập không được sửa có thể kìm hãm doanh nghiệp phát triển. Bên cạnh đó, dự án Luật Hỗ trợ DNNVV nếu được thông qua cũng chỉ thực hiện cuối năm 2017 nên khó phát huy được.

Trong khi đó, đại biểu Phạm Quang Thanh (Hà Nội) cho rằng, một số chỉ tiêu đề ra cho năm 2017 mang tính tham vọng bởi các yếu tố đầu vào chưa rõ ràng. Nếu đạt được các mục tiêu nêu trong báo cáo của Chính phủ là tốt, tuy nhiên phải hết sức cố gắng và phải “thiên thời, địa lợi” mới thực hiện được. Bên cạnh đó, đề án tái cơ cấu có nêu hơn 10 lĩnh vực nhưng chỉ nên gom lại khoảng 5 lĩnh vực để đầu tư tập trung. Chẳng hạn, du lịch là lĩnh vực đầu tư ít vốn nhưng mang lại hiệu quả cao nếu có cách làm tốt. Vừa qua, Hà Nội đầu tư 80 tỷ đồng cho du lịch, khách đến Hà Nội nhiều hơn, tăng trưởng nhìn thấy ngay.

Theo Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải, mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam đầu tư chiếm tỷ trọng lớn, xuất khẩu và lao động là chủ công. Năm 2016, tốc độ tăng trưởng GDP có thể chỉ đạt 6,3%, trong nhiều nguyên nhân không đạt có lý do giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản chậm. Nhưng sự chậm trễ này có nguyên nhân bất cập trong 12 luật chưa sửa. Nếu không kịp thời điều chỉnh sửa, mục tiêu tăng trưởng 6,7% năm 2017 sẽ khó đạt được. Đại biểu Phạm Phú Quốc (TPHCM), cũng cho rằng Việt Nam cần xác định ngành nghề trọng điểm là kinh tế biển, là du lịch hay ngành gì và phải xác định không thể cạnh tranh về công nghiệp. “Tôi cho rằng tái cấu trúc nền kinh tế phải xác định, xây dựng được một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn; một số đô thị phát triển; ngành nghề, sản phẩm chủ lực của  Việt Nam nhằm cạnh tranh với thế giới” -  đại biểu Quốc nhấn mạnh.

Giới hạn chỉ số an toàn nợ công

Quang Minh

Đánh giá về nợ công thời gian qua, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cho rằng giai đoạn 2011-2015 do tăng trưởng kinh tế không đạt kế hoạch, chính sách tài khóa chưa tích cực cùng với sự mất cân đối trong thu, chi ngân sách, đã dẫn đến bội chi tăng cao trong nhiều năm, không đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Chính vì vậy, nợ công tăng nhanh, dù vẫn trong giới hạn cho phép nhưng bắt đầu có dấu hiệu rất khó khăn về trả nợ trong ngắn hạn và không an toàn trong dài hạn.

Nợ công và nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh

Nợ công giai đoạn 2011-2015 có xu hướng tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ; tốc độ tăng nợ công nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng GDP. Nợ công tính đến năm 2015 là 2.608.000 tỷ đồng, bằng 62,2% GDP. Tuy vẫn trong giới hạn cho phép song tốc độ tăng bình quân cả giai đoạn (18,4%/năm) là khá cao, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP; tỷ lệ nợ chính phủ/GDP tăng từ 39,3% năm 2011 lên 50,3% năm 2015. Đặc biệt, chỉ tiêu nợ Chính phủ/GDP năm 2015 là 50,3% đã vượt giới hạn trần cho phép (50%). Các chỉ số về nợ công tiềm ẩn nguy cơ tiệm cận hoặc vượt ngưỡng cho phép nếu tính cả các khoản nợ khác của ngân sách, các khoản nợ có khả năng chuyển đổi thành nợ công, có nguy cơ ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công, tác động tiêu cực đến cân đối NSNN và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.

Mức dư nợ công được tính theo báo cáo chưa bao gồm các khoản nợ có tính chất nợ công, các khoản nợ khác của ngân sách như: nợ cấp bù chênh lệch lãi suất cho 2 ngân hàng chính sách, nợ khối lượng xây dựng cơ bản... Nếu tính đủ các khoản này dư nợ công sẽ tiệm cận hoặc vượt giới hạn cho phép. Ngoài ra, các khoản nợ tự vay, tự trả của DNNN về nguyên tắc thuộc nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của doanh nghiệp song trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả nợ rất có thể sẽ chuyển thành nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ, nếu quản lý không chặt chẽ sẽ chuyển thành nợ chính thức của Chính phủ, tạo thêm áp lực cho ngân sách.

Bên cạnh đó, cơ cấu vay, sử dụng nợ công chưa thực sự hợp lý, nghĩa vụ trả nợ và các khoản nợ phải trả hàng năm tăng nhanh. Số liệu tổng hợp cho thấy vốn vay trong nước ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao, lãi suất cao, thời gian trả nợ ngắn nhưng lại được sử dụng cho các công trình, dự án có đầu tư và thu hồi vốn dài. Tỷ lệ nghĩa vụ nợ gồm cả đảo nợ đã vượt giới hạn cho phép. Theo đó, nếu tính cả nghĩa vụ trả nợ phải đảo nợ, tổng nghĩa vụ nợ đã ở mức 27,4% tổng thu ngân sách vào năm 2015. Nếu tính cả các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh và các khoản vay về cho vay lại đang tiềm ẩn nguy cơ không có khả năng trả nợ, chuyển thành nợ trực tiếp của Chính phủ, tỷ lệ nghĩa vụ nợ tiếp tục tăng. Ngoài ra, phải kể đến hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao. Một số dự án vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ, dự án được Chính phủ bảo lãnh khó khăn trong trả nợ; một số dự án sử dụng vốn vay điều chỉnh tổng mức đầu tư lớn, kéo dài thời gian thi công...

Chỉ số rất quan trọng liên quan đến nợ công, là một trong những thước đo để đánh giá mức độ an toàn nợ công là tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ (bao gồm cả đảo nợ và cho vay lại) trên tổng thu ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng nhanh, vượt mức trần 25%, ảnh hưởng tới an ninh tài chính quốc gia.

Ông Nguyễn Đức Hải, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách

Nâng trần nợ chính phủ lên 53%?

Ngoài việc duy trì ngưỡng an toàn nợ công/GDP, nợ nước ngoài của quốc gia/GDP như giai đoạn vừa qua, giai đoạn 2016-2020 Chính phủ đề xuất nâng chỉ tiêu giới hạn nợ chính phủ/GDP từ mức 50% hiện nay lên mức trần 55%. Tuy nhiên, đa số ý kiến trong Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng trong bối cảnh ngân sách còn nhiều khó khăn, an ninh tài chính quốc gia chưa thực sự vững chắc, về cơ bản cần duy trì ngưỡng an toàn nợ công như giai đoạn 2011-2015 (nợ công so với GDP là 65%, nợ chính phủ/ GDP 50%, nợ nước ngoài 50%) và thắt chặt việc quản lý, sử dụng vốn vay. Đối với chỉ tiêu nợ chính phủ/GDP, có thể cân nhắc quy định ngưỡng tối đa 53%, song đến năm 2020 đề nghị đưa về mức giới hạn 50%. Đồng thời, đề nghị Chính phủ rút kinh nghiệm trong quá trình điều hành khi để tỷ lệ nợ chính phủ/GDP giai đoạn 2011-2015 vượt mức trần đã được Quốc hội quyết định, kịp thời áp dụng các giải pháp để bảo đảm các chỉ tiêu về nợ công nằm trong giới hạn cho phép, đưa tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi của Chính phủ (bao gồm cả đảo nợ và cho vay lại) trên tổng thu NSNN xuống dưới mức 25% và bảo đảm trong giai đoạn tới, số vay đảo nợ năm sau phải thấp hơn năm trước.

Bên cạnh đó, Ủy ban Tài chính - Ngân sách cũng lưu ý Chính phủ năm 2016 dư nợ công sẽ vượt ngưỡng 65% nếu tính cả khoản 14.295 tỷ đồng phát hành thêm để bổ sung vốn cho các dự án trên tuyến Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây nguyên, theo Nghị quyết 99/2015/QH13 của Quốc hội. Do đó, Chính phủ cần dự báo, tính toán chỉ số tăng trưởng GDP ở mức an toàn (Chính phủ tính toán trên cơ sở dự báo tăng trưởng GDP 2016-2020 là 6,75%) để bảo đảm chắc chắn, tránh bị động trong quá trình điều hành ngân sách, cũng như ảnh hưởng không thuận tới tình hình vay, trả nợ. Đồng thời, cần xây dựng phương án dự phòng để bảo đảm chủ động chỉ đạo, điều hành trong trường hợp GDP không đạt kế hoạch đề ra, bảo đảm các chỉ số an toàn nợ công không vượt quá giới hạn được Quốc hội quyết định.

Cùng với đó, việc huy động, quản lý, sử dụng vốn vay ODA cần được tính toán, cân nhắc thận trọng, tránh tình trạng cam kết, ký kết cao nhưng không giải ngân được hoặc giải ngân chậm, làm gia tăng nợ công, ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn vay. Hiện nay một số khoản vay ODA đang bị ràng buộc bởi những điều kiện theo yêu cầu của nhà tài trợ, có thể làm gia tăng chi phí vay. Do đó, Chính phủ cần lưu ý, tính toán, cân nhắc thận trọng lĩnh vực, dự án vay, chi phí lãi vay và các điều kiện liên quan khi đề xuất đàm phán, ký kết các khoản vay này. Theo đại biểu Nguyễn Tiến Sinh, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hòa Bình, ở địa phương nhu cầu đầu tư, chi thường xuyên rất lớn. Với tình hình này nợ công chắc chắn trên 65% nếu cộng thêm 14.000 tỷ đồng nợ xây dựng cơ bản trong nông thôn mới. Thu tăng ì ạch nhưng chi tăng lương, chi an sinh xã hội tăng vùn vụt.

Các tin khác