TCC: Cần quyết tâm và thực chất

(ĐTTCO) - Đặt ra nhiều mục tiêu cụ thể, kế hoạch tái cơ cấu (TCC) nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 vừa được Chính phủ trình ra Quốc hội tiếp tục dành nhiều sự quan tâm của các đại biểu Quốc hội tại 2 phiên thảo luận tuần qua. Vấn đề được quan tâm nhiều là làm sao khơi thông được nguồn lực và lựa chọn ngành, lĩnh vực ưu tiên để tạo sự lan tỏa.

(ĐTTCO) - Đặt ra nhiều mục tiêu cụ thể, kế hoạch tái cơ cấu (TCC) nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 vừa được Chính phủ trình ra Quốc hội tiếp tục dành nhiều sự quan tâm của các đại biểu Quốc hội tại 2 phiên thảo luận tuần qua. Vấn đề được quan tâm nhiều là làm sao khơi thông được nguồn lực và lựa chọn ngành, lĩnh vực ưu tiên để tạo sự lan tỏa.

Khơi thông nguồn lực ngoài ngân sách

Theo Chính phủ, 5 nội dung trọng tâm của TCC bao gồm: phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân trong nước và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); TCC doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đầu tư công, ngân sách và khu vực dịch vụ sự nghiệp công; TCC thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng và thị trường chứng khoán; hiện đại hóa công tác quy hoạch, cơ cấu ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; TCC thị trường các nhân tố sản xuất quan trọng (thị trường quyền sử dụng đất, lao động và khoa học công nghệ). 

Trong TCC, điểm rất quan trọng là lãnh đạo các ngành, các cấp cần vượt qua được chính mình, vượt qua được tư duy nhiệm kỳ, thiếu khát vọng, e ngại khó khăn, không dám đối mặt với khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội, thậm chí biến những khó khăn, thách thức thành cơ hội để đạt mục tiêu cao hơn. Bên cạnh đó, phải vượt qua được lợi ích cục bộ của từng ngành, từng địa phương để hướng tới sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả hơn, tránh cát cứ và chia cắt. Có vậy mới thực hiện thành công TCC.

Ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ KH-ĐT

Các chỉ tiêu cụ thể của TCC nền kinh tế bao gồm: tốc độ tăng năng suất lao động đạt 5,5-6%/năm; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) cho tăng trưởng chiếm khoảng 30-35% tốc độ tăng trưởng; thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh quốc gia với các nước ASEAN 4; phấn đấu kiểm soát lạm phát dưới 4% những năm đầu kỳ kế hoạch và 3% đến năm 2020; giảm dần thâm hụt ngân sách xuống dưới 4% GDP vào năm 2020 (định hướng giảm xuống dưới 3% trong giai đoạn tiếp theo); đẩy nhanh thoái vốn nhà nước tại các DN một cách thực chất (thoái toàn bộ vốn nhà nước tại các DNNN thuộc các ngành không cần Nhà nước sở hữu trên 50% vốn, thoái vốn nhà nước xuống mức sàn quy định tại các ngành còn lại); đến năm 2020, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 70% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt 30% GDP… Nguồn lực thực hiện kế hoạch TCC nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 dự kiến khoảng 10,5 triệu tỷ đồng.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư (KH-ĐT) Nguyễn Chí Dũng, 10,5 triệu tỷ đồng để thực hiện TCC là nguồn vốn cần đạt được để tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm tới 6,5-7%. Trong đó nguồn lực từ ngân sách dự kiến 2 triệu tỷ đồng; tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 32-34% GDP 5 năm tới, tương đương 9-10 triệu tỷ đồng. Trong đó, năm 2016, tổng vốn đầu tư toàn xã hội 1,5 triệu tỷ đồng, năm 2017 dự kiến 1,6 triệu tỷ đồng. Do đó, đặt mục tiêu phấn đấu 10,5 triệu tỷ đồng là để quyết tâm thực hiện TCC kinh tế một cách mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Kế hoạch TCC kinh tế dự kiến cơ cấu lại tổng vốn đầu tư toàn xã hội theo hướng giảm dần tỷ trọng vốn ngân sách và đầu tư của DNNN, tăng tỷ trọng vốn đầu tư ngoài nhà nước, nhất là đầu tư từ khu vực tư nhân. Vốn nhà nước dự kiến giảm từ 39,1% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 31-34% giai đoạn 2016-2020. Theo đó, vốn của khu vực tư nhân dự kiến tăng 38,3-48% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Theo nhiều đại biểu, thực tế nguồn lực, dư địa phát triển còn rất nhiều, vấn đề là khai thác và phát huy như thế nào. Thí dụ, khối tài sản nhà nước nằm ở DNNN và cơ quan hành chính cung cấp dịch vụ công khoảng 500 tỷ USD. Nếu chúng ta khai thác, phân bổ lại nguồn lực này trong giai đoạn 2016-2020 khoảng 1/3 hay 1/2 sẽ tạo cú hích cho tăng trưởng. Bên cạnh đó, cần thực chất hơn trong cổ phần hóa, thoái vốn tại các DN mà Nhà nước không cần nắm giữ, thay vì chỉ bán 2 hoặc 3% thậm chí 5% vốn. Bởi điều này sẽ khó thay đổi được quản trị DN và khó thu hút vốn bên ngoài tham gia.

Lựa chọn ngành, lĩnh vực ưu tiên

Theo đại biểu Trần Anh Tuấn (TPHCM), kế hoạch TCC kinh tế giai đoạn tới cần xác định rõ ngành, sản phẩm ưu tiên. Trong đó cần làm rõ cơ sở để xác định 11 sản phẩm nông - lâm - thủy sản, 7 ngành dịch vụ, 13 ngành công nghiệp ưu tiên trong đề án. Bởi lẽ, việc phân tích chuyển dịch cơ cấu của từng nhóm, ngành này trong cơ cấu nội bộ từng khu vực kinh tế chưa được thể hiện rõ trong kế hoạch TCC.

Trong bối cảnh cả DN tư nhân và DNNN đang chạy theo đầu cơ ngắn hạn sẽ không có chuyển dịch cơ cấu về mặt thực chất. Do vậy, kịch bản TCC cần phải nhấn mạnh các yếu tố quan trọng để giúp giải phóng nguồn lực ngoài ngân sách. Đó là thoái vốn tại các DNNN và chỉ giữ lại DN thực sự cần thiết liên quan đến an ninh quốc phòng, đảm bảo an sinh phúc lợi; đẩy mạnh hợp tác công tư; đẩy mạnh cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp hoạt động không hiệu quả.

Đại biểu Lê Quân (Hà Nội)

Bên cạnh đó, một số nhân tố thể hiện chất lượng tăng trưởng, như năng suất của lao động, vốn, các nhân tố tổng hợp cho từng nhóm, ngành, sản phẩm ưu tiên đã được xác định cũng chưa được thể hiện rõ. Nếu làm rõ có thể chọn ra những nhóm ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có hiệu quả sản xuất cao, có tiềm năng phát triển trong giai đoạn tới. Từ đó, đề ra các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án ưu tiên, tập trung hơn cho các sản phẩm ưu tiên này, nhằm tạo sự chuyển biến trong cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế mạnh hơn, mang lại sự phát triển bền vững hơn.

Về quan điểm lựa chọn ngành, theo đại biểu Phạm Quang Thanh (Hà Nội), năm 2016 du lịch là một trong những điểm sáng hiếm hoi của nền kinh tế khi tăng trưởng 25,7% so với năm 2015 và đóng góp cho GDP khoảng 370.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, du lịch là ngành dịch vụ tổng hợp, có tính lan tỏa cao, liên ngành, liên vùng, vì vậy ưu tiên tập trung đầu tư cho du lịch là phù hợp với định hướng của chi ngân sách cũng như đầu tư trong giai đoạn tới. Đại biểu Phan Việt Cường (Quảng Nam), cũng cho rằng đất nước, con người Việt Nam không thua kém các nước trên thế giới nhưng ngành du lịch chưa bằng. Do đó, Nhà nước cần đầu tư du lịch một cách bài bản, có thể chọn một số địa phương có lợi thế về du lịch để đầu tư, từ đó nhân rộng mô hình cho cả nước.

Thẩm tra về nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh đề nghị Chính phủ rà soát, thể hiện đậm nét hơn trong kế hoạch TCC giai đoạn 2016-2020 định hướng, nhiệm vụ về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước vào năm 2020. Từ đó có giải pháp thiết thực để nâng cao chất lượng dịch vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực du lịch; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch, phát triển các khu dịch vụ du lịch phức hợp có quy mô lớn và chất lượng cao.

Tạo niềm tin cho DN

Điều quan trọng là tập trung vào các giải pháp TCC, nâng cao chất lượng hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, trước hết là hiệu quả của đầu tư. Điều này sẽ tạo ra những cơ hội cũng như niềm tin để khu vực tư nhân, khu vực DN FDI tham gia mở rộng đầu tư, làm cho tổng vốn đầu tư tăng lên. Nếu làm tốt TCC tổng vốn đầu tư toàn xã hội có thể còn tăng cao hơn mục tiêu đề ra và ngược lại. Chính vì vậy, cần phải thực hiện một cách khẩn trương và hiệu quả nhiệm vụ ưu tiên của TCC nền kinh tế bao gồm: đẩy nhanh xử lý nợ xấu và áp dụng các biện pháp kiên quyết đối với các ngân hàng thương mại yếu kém; cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các DN một cách thực chất, theo lộ trình và kế hoạch đã phê duyệt; tái cơ cấu danh mục vốn đầu tư và tài sản của khu vực nhà nước, trước hết là DNNN; cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ phát triển DN…

DNTN là 1 trong 5 trọng tâm quan trọng trong việc tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Ảnh: LONG THANH
DNTN là 1 trong 5 trọng tâm quan trọng
trong việc tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.  Ảnh: LONG THANH

Tuy nhiên, nhiều đại biểu tỏ ra băn khoăn về kết quả TCC 5 năm vừa qua còn nhiều hạn chế, chủ yếu do khâu tổ chức thực hiện. Đại biểu Phùng Văn Hùng (Cao Bằng) bày tỏ: “Qua đi giám sát chúng tôi có cảm nhận dù đã thực hiện 5 năm nhưng TCC vẫn chưa về tới địa phương. Tình trạng coi việc TCC là việc của Trung ương khá phổ biến”. Một trong những nguyên nhân quan trọng là chưa có sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương xuống địa phương, chưa có một cơ quan chính thức đủ thẩm quyền chỉ đạo, điều phối, kiểm tra, đôn đốc thực hiện, chưa có sự phân công cụ thể, chưa đưa ra được tiến độ, lộ trình thực hiện TCC và cơ chế giám sát hiệu quả”. Đại biểu Quàng Văn Hương (Sơn La) đề nghị mỗi bộ, ngành, tỉnh, thành phố cần có kế hoạch triển khai chi tiết để thực hiện kế hoạch của Chính phủ, đảm bảo tính khả thi cao nhất và tập trung cao khi triển khai thực hiện. Trong tổ chức thực hiện cần xác định rõ hơn trách nhiệm của các cấp, các ngành và xem xét trách nhiệm của người đứng đầu không hoàn thành kế hoạch đề ra.

Theo Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, trong TCC sắp tới rất cần có sự nhận thức đầy đủ, chỉ đạo quyết liệt hơn ở cả Trung ương và địa phương, đồng thời kết hợp cả biện pháp hành chính và thị trường để thực hiện các mục tiêu. Bên cạnh đó là cần tăng cường công tác giám sát của Quốc hội để việc triển khai thực hiện TCC ở các cấp, ngành quyết liệt hơn, hiệu quả thiết thực hơn. Theo đó, Quốc hội giao Ủy ban thường vụ Quốc hội tăng cường hoạt động chất vấn tại các phiên họp (2-3 lần/năm) về quá trình thực hiện TCC nền kinh tế. Ngoài ra, Chính phủ báo cáo Quốc hội về tình hình triển khai tại kỳ họp cuối năm và tăng cường cơ chế báo cáo hàng quý về TCC gửi Ủy ban Kinh tế và các cơ quan khác của Quốc hội.

Mục tiêu GDP 6-6,5% hợp lý

Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI

10 tháng năm 2016, cả nước có hơn 91.000 DN đăng ký thành lập mới, tính trung bình 5 phút có thêm 1 DN mới ra đời. Với đà này, năm 2016 số lượng DN thành lập mới có thể vượt con số 100.000. Kết quả này cho thấy niềm tin vào môi trường kinh doanh đang được khơi dậy. Đó là dấu ấn quan trọng nhất của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021.

Niềm tin được khơi dậy

Với điều kiện bình thường, khơi dậy niềm tin của người dân và DN vào môi trường kinh doanh đã khó, nhưng trong bối cảnh gian nan của nền kinh tế kể từ đầu năm tới nay (hệ lụy từ những bất ổn của kinh tế thế giới, thiên tai dồn dập, sự tích tụ những khuyết tật về cơ cấu của nền kinh tế chưa được khắc phục, chỉ số nợ xấu, nợ công, nợ chính phủ tới ngưỡng, vượt trần…) mới thấy những nỗ lực lội ngược dòng của Chính phủ rất đáng trân trọng. Cử tri và cộng đồng DN đặc biệt cảm nhận và đánh giá cao tinh thần và hành động của Chính phủ theo hướng kiến tạo, phục vụ người dân và DN qua việc ban hành và chỉ đạo thực hiện quyết liệt các Nghị quyết 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; Nghị quyết 35 về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020 với các mục tiêu: đưa Việt Nam vào nhóm 4 quốc gia có môi trường kinh doanh tốt nhất trong ASEAN, hướng tới mục tiêu 1 triệu DN hoạt động có hiệu quả vào năm 2020… Đó là những mục tiêu chỉ có thể đạt được bằng những nỗ lực đột phá.

Về hoạt động của Quốc hội, tôi cũng xin được chia sẻ, dù luôn ủng hộ những sáng kiến lập pháp và kế hoạch hành động của Chính phủ, nhưng Quốc hội dường như cũng đang tỏ ra “khó tính hơn” và “có trách nhiệm hơn” trong những thảo luận, tranh luận gần đây về các dự luật và các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Không khí thảo luận tranh luận thẳng thắn, dân chủ, đầy trí tuệ và tinh thần trách nhiệm với dân, với nước tại diễn đàn Quốc hội cũng đã cho thấy những nỗ lực vượt lên của Quốc hội để đồng hành với Chính phủ. 

Muốn phát triển bền vững phải căn cơ, “liệu cơm gắp mắm”. Chúng ta nên đặt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5% đồng thời cố gắng bảo đảm cải thiện chất lượng tăng trưởng. Trong giai đoạn 2007-2015, nền kinh tế cũng chỉ tăng trưởng trung bình 6%/năm với hệ số ICOR hơn 6, nên nếu đạt mức 6-6,5% trong 5 năm tới với hệ số ICOR không quá 5 đã là tiến bộ.

Mục tiêu quá tham vọng?

Mặc dù niềm tin đã được khơi dậy và không khí khởi nghiệp quốc gia đã bắt đầu, nhưng nền kinh tế và cộng đồng DN vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn và các kế hoạch về phát triển kinh tế - xã hội 2017, tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 phải tính đến một cách cẩn trọng. Về tổng thể, cả 2 bản kế hoạch đều đã được xây dựng công phu, thể hiện quyết tâm rất cao của Chính phủ trong việc đẩy mạnh cải cách thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm ổn định vĩ mô, từ đó tạo tiền đề đưa nền kinh tế nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới. Tuy nhiên, cả 2 bản kế hoạch đều có điểm chung là rất tham vọng. Từ một góc độ nào đó, việc đặt ra những mục tiêu cao sẽ tạo động lực để cả hệ thống vươn xa hơn. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ khác, việc đặt ra những mục tiêu quá tầm thể hiện tính chủ quan, duy ý chí, bỏ qua các quy luật khách quan.

Nhìn lại các kế hoạch phát triển kinh tế giai đoạn trước, có thể khẳng định việc đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP quá cao là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bất ổn kinh tế vĩ mô, bởi nó đòi hỏi quá nhiều nguồn lực, buộc các chính sách tài chính và tiền tệ phải nới lỏng quá mức, gây ra những hệ lụy như lạm phát, nợ công và nợ xấu, cho đến nay chúng ta vẫn còn loay hoay chưa giải quyết xong. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần này, mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7% năm 2017, theo tôi tương đối cao. Trong 9 tháng năm 2016 nền kinh tế tăng trưởng chưa đến 6%. Các động lực chính của tăng trưởng là đầu tư công và xuất khẩu đều không đạt kế hoạch. Nền kinh tế thế giới vẫn chưa khởi sắc, kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, gần 60% DN kinh doanh không có lãi, dịch bệnh, thiên tai dưới tác động của biến đổi khí hậu diễn biến khó lường... Vậy dựa trên cơ sở nào để Chính phủ đưa ra mục tiêu GDP tăng 6,7% cho năm 2017?

Tuy nhiên, vấn đề chính nằm ở chỗ kế hoạch thu/chi ngân sách, nợ công… đều được lập trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng GDP này. Và nếu tăng trưởng không đạt mục tiêu sẽ có hiệu ứng dây chuyền đến những chỉ tiêu khác. Điều này chúng ta đã nhìn thấy trong vài năm gần đây. Vậy, Chính phủ đã có kịch bản xử lý cho tình huống này? Đối với mục tiêu lạm phát cũng vậy. Mấy năm nay chúng ta đặt ra mục tiêu lạm phát 5%, lãi suất cũng vì thế được gắn theo mục tiêu này, nhưng cuối cùng lạm phát chỉ 1-2%. Kết quả lãi suất bị neo ở mức quá cao so với lạm phát và những người chịu hậu quả là DN và ngân sách nhà nước. Hay với cân đối xuất nhập khẩu, tại sao lại đưa ra mục tiêu nhập siêu 6,5 tỷ USD, trong khi 9 tháng năm 2016 nền kinh tế đã xuất siêu gần 4 tỷ USD? Và cơ sở nào Chính phủ lập kế hoạch vốn đầu tư của dân cư và DN tư nhân 750.000 tỷ đồng trong năm 2017?…

 Liệu cơm gắp mắm

Về kế hoạch TCC nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, một số mục tiêu như thoái vốn và cổ phần hóa DNNN tương đối rõ ràng, cấp tiến. Tuy nhiên, một số mục tiêu được đặt ra chưa thấy rõ phải làm cách nào để đạt được. Chẳng hạn, mục tiêu đưa nợ xấu trong nền kinh tế xuống mức dưới 3% là cần thiết, nhưng giải pháp lại rất mơ hồ. Có lẽ chỉ những mục tiêu liên quan đến ngân sách và nợ công là rõ ràng, cụ thể và phù hợp nhất, bởi chẳng có phương án nào khác để nợ công không vượt trần.

Thí dụ, mục tiêu tổng đầu tư toàn xã hội khoảng 32-34% GDP. Với hệ số ICOR là 5, để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5-7%, tổng đầu tư xã hội cần đạt mức này. Nhưng hiện tại, tiết kiệm của nền kinh tế chỉ đạt mức 28-29% GDP. Bởi vậy, để đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra sẽ phải tăng vay nợ. Điều này ảnh hưởng thế nào đến an toàn nợ công nói riêng và ổn định vĩ mô nói chung trong 5 năm tới? Chúng ta đều hiểu, áp lực tăng trưởng đối với đất nước ta trong những năm tới rất lớn vì liên quan đến công ăn việc làm của người dân và ngân khố quốc gia. Nhưng mọi kế hoạch kinh tế đều phải được tính toán trên cơ sở “tiền tươi, thóc thật”, phù hợp với thực lực hơn, không nên đưa ra những mục tiêu quá cao để phấn đấu mà không bao giờ đạt được, hay các mục tiêu quá thấp để dễ dàng vượt qua.

Các tin khác