Quyền lực UAV (K1): Tử thần và Kẻ săn mồi

(ĐTTCO) - Cùng với sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật chiến tranh cũng được nâng lên tầm cao mới. Giờ đây, một người lính có thể ngồi tại Washington để tiêu diệt kẻ thù ở tận Trung Đông, nhờ vào công nghệ máy bay không người lái (UAV). Theo xếp hạng của The National Interest, 5 nước đứng đầu về quyền lực UAV hiện nay là Hoa Kỳ, Israel, Trung Quốc, Iran và Nga.

(ĐTTCO) - Cùng với sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật chiến tranh cũng được nâng lên tầm cao mới. Giờ đây, một người lính có thể ngồi tại Washington để tiêu diệt kẻ thù ở tận Trung Đông, nhờ vào công nghệ máy bay không người lái (UAV). Theo xếp hạng của The National Interest, 5 nước đứng đầu về quyền lực UAV hiện nay là Hoa Kỳ, Israel, Trung Quốc, Iran và Nga.

2 dòng UAV công nghệ hiện đại nhất hiện nay đều thuộc về Hoa Kỳ, với tên gọi “Tử thần” (Reaper) và “Kẻ săn mồi” (Predator). Cả 2 dòng UAV này đều đã tham gia những cuộc chiến ở Trung Đông, là nỗi ám ảnh của kẻ thù không lực Hoa Kỳ, cũng như... thường dân ở những nước đó.

Kẻ săn mồi MQ-1 Predator

MQ-1 Predator được biết đến như máy bay tấn công không người lái đầu tiên trên thế giới. Được phát triển vào đầu những năm 1990 cho nhiệm vụ trinh sát, Predator mang camera và các cảm biến khác nhưng đã được sửa đổi và nâng cấp để có thể mang 2 tên lửa AGM-114 Hellfire hoặc các loại đạn dược khác. Với động cơ Rotax và một cánh quạt, chiếc UAV có thể bay xa 740km, quần thảo trên không trong 14 giờ để tiêu diệt các mục tiêu. Tốc độ bay của phi cơ đạt gần 220km/h. General Atomics Aeronautical Systems (GA) giành được hợp đồng phát triển Predator vào tháng 1-1994. Chuyến bay thử đầu tiên thực hiện vào tháng 6-1996 tại sân bay El Mirage ở sa mạc Mojave.

Ở những phiên bản đầu, phi công cùng các chuyên gia ngồi trong một chiếc xe gần đường băng căn cứ hoạt động của UAV để điều khiển máy bay cất cánh bằng sóng radio trực tiếp. Sau đó, việc kết nối sẽ chuyển sang mạng lưới vệ tinh quân sự trên chiếc van của phi công. Phi công cho biết có độ trễ vài giây giữa việc điều khiển và phản ứng của UAV. Đến năm 2000, những cải tiến trong các hệ thống thông tin liên lạc đã giúp việc điều khiển UAV từ khoảng cách rất xa. Theo đó, toàn bộ chuyến bay có thể được điều khiển bằng vệ tinh từ bất kỳ trung tâm chỉ huy và kiểm soát nào có các thiết bị phù hợp.

Nhờ sự tiến bộ này, CIA đề xuất thử dùng Predator cho các nhiệm vụ ở Afghanistan. Những hoạt động bay của Predator lần đầu tiên được điều khiển từ trụ sở của CIA tại Langley, Virginia. Khi bắt đầu cuộc chiến ở Afanistan vào năm 2001, Không lực Hoa Kỳ (USAF) đã mua lại 60 chiếc Predator. Dù bị mất 20 chiếc trong cuộc chiến, nhưng không có chiếc nào bị kẻ thù bắn hạ, mà do thời tiết quá băng giá. Từ sự cố khách quan này, một số Predators sau đó đã được trang bị hệ thống làm tan băng, cùng với một động cơ tăng áp và hệ thống điện tử cải thiện. Phiên bản cải tiến này được gọi là "Block 1", hay "RQ-1B" hoặc "MQ-1B" nếu nó mang theo vũ khí.

Trong các hoạt động bay của Predator, cần 1 phi hành đoàn ở trạm kiểm soát mặt đất gồm 1 phi công và 2 người điều khiển cảm biến. Máy bay được trang bị hệ thống nhắm mục tiêu đa quang phổ AN/AAS-52, 1 máy ảnh, 1 biến độ mở ống kính máy ảnh ngày và 1 máy ảnh nhiệt tùy biến khẩu độ (trong trường hợp ánh sáng yếu hoặc ban đêm). Trước đây, Predator được trang bị radar để tìm kiếm xuyên qua khói, mây hoặc sương mù, nhưng sau đó đã bị gỡ bỏ để giảm trọng lượng và tiết kiệm nhiên liệu. Predator cải tiến sau này đều được trang bị thiết bị laser cho phép phi công xác định mục tiêu cho các máy bay khác, thậm chí dẫn đường bằng laser cho máy bay có người lái.

Mỗi chiếc Predator có thể được tháo rời thành 6 phần chính và chất vào 1 container có biệt danh "quan tài". Vào mùa đông năm 2000-2001, sau khi thấy hiệu quả của Predator do thám ở Afghanistan, Cofer Black, Giám đốc Trung tâm phản gián của CIA (CTC), đã ủng hộ mạnh mẽ việc trang bị tên lửa cho các Predator để truy sát Osama bin Laden. Áp lực từ CIA và lợi ích thực tế đã thúc đẩy chương trình vũ trang hóa Predator diễn ra nhanh hơn. Tuy nhiên, việc trang bị vũ khí cho các Predator không được thực hiện cho đến khi diễn ra vụ tấn công khủng bố ở Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.

USAF đặt hàng tổng cộng 259 chiếc Predators và tính đến tháng 5-2014 còn 154 chiếc đang phục vụ. Kế hoạch ngân sách quốc phòng năm 2015-2017 cho thấy Hoa Kỳ sẽ dần thay thế các Predator bằng những chiếc Reaper, được cho là dòng kế thừa với những ưu điểm vượt trội.

Tử thần MQ-9 Reaper.

Tử thần MQ-9 Reaper.

Tử thần MQ-9 Reaper

MQ-9 Reaper - với danh xưng “tử thần” - là sự kế thừa từ các dòng Predator. MQ-9 đầu tiên được thiết kế để vận hành lâu và giám sát trên cao. Nó lớn, nặng và nhiều tính năng hơn so với Predator. Reaper có 1 động cơ phản lực cánh quạt 950 mã lực (so với 115 mã lực của Predator). Sức mạnh lớn hơn cho phép Reaper mang nặng gấp 15 lần và bay nhanh hơn gấp 3 lần Predator. General Atomics đã bắt đầu phát triển dòng Reaper từ dòng "Predator B-001". Nó có khung máy bay dựa trên khung của Predator chuẩn, nhưng thân máy bay được mở rộng và cánh kéo dài từ 15m lên 20m. Nó có tốc độ 410km/h, có thể mang 340kg lên độ cao 15.000m và bay liên tục suốt 30 giờ.

Phiên bản mới MQ-9 được trang bị camera cực tốt giúp người điều khiển có thể trông rõ biển số xe hơi ở khoảng cách 3,2km. Mệnh lệnh của phi công từ căn cứ ở gần Las Vegas sẽ mất 1,2 giây để truyền đến UAV qua kết nối vệ tinh. MQ-9 được trang bị 7 giá treo vũ khí, mỗi giá mang tối đa 680kg. MQ-9 Reaper có thể mang theo hơn 1,1 tấn vũ khí và gần 600kg thiết bị. Khi chất đầy đạn dược, Reaper vẫn có thể hoạt động suốt 14 giờ. MQ-9 mang nhiều loại vũ khí bao gồm cả bom GBU-12 Paveway II dẫn đường bằng laser, tên lửa không đối đất AGM-114 Hellfire II, tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder hoặc AIM-92 Stinger; bom GBU-38 JDAM cùng một số vũ khí khác. Để nâng cao khả năng tác chiến trên không cho MQ-9 Reaper, Tập đoàn GA-ASI đang phát triển một loại radar tối tân cho riêng MQ-9, giúp nó tăng cường khả năng tìm kiếm mục tiêu mặt đất, phát hiện các mối đe dọa trên không, thậm chí lần tìm hệ thống gây nhiễu của đối phương. Tên lửa không đối không AIM-92 Stinger và radar AESA khiến “Tử thần” có thể đảm trách thêm nhiệm vụ tiêu diệt các UAV trinh sát của địch. Việc MQ-9 Reaper có thể mang theo tên lửa không đối không AIM-92 đã chứng tỏ khả năng tác chiến của nó không giới hạn.

Đến tháng 5-2007, Không quân Hoa Kỳ sở hữu 9 Reaper. Trong năm 2008, phi đội New York Air National Guard 174 bắt đầu quá trình chuyển đổi từ máy bay chiến đấu có người lái F-16 sang MQ-9 Reaper, trở thành phi đội đầu tiên hoàn toàn dùng UAV cho không chiến. Đến tháng 12-2010, USAF có 57 chiếc và có kế hoạch mua thêm 272 chiếc khác. Ngoài 2 dòng UAV tấn công nổi tiếng nói trên, Hoa Kỳ còn sử dụng dòng UAV tấn công thứ 3 là Elbit Hermes 450, nhập của đồng minh Israel.

Theo New America Foundation, một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Washington thường xuyên theo dõi các vụ tấn công bằng UAV ở Pakistan, cho biết trong năm 2010, Hoa Kỳ đã thực hiện 122 phi vụ không kích bằng UAV.

(còn tiếp)

Các tin khác