Nhức nhối nạn buôn người - Kỳ 1: Lao động cưỡng bức

(ĐTTCO) - Ngày 7-1, Liên hiệp quốc (LHQ) công bố báo cáo bày tỏ lo ngại về các tội phạm buôn người cho các đường dây cưỡng bức lao động, bóc lột tình dục, mổ cướp nội tạng trên thế giới, và đa phần vẫn không bị trừng phạt. Đặc biệt, nạn nhân là phụ nữ và trẻ em tăng cao kỷ lục.

Báo cáo của Cơ quan LHQ chống ma túy và tội phạm (ONUDC), trụ sở tại Vienna, Áo, cho biết cưỡng bức lao động là hình thái phổ biến thứ 2 của nạn buôn người. Con số nạn nhân chiếm 1/3, chủ yếu tại châu Phi và Trung Đông. Và hình thái này tạo ra khoảng 150 tỷ USD/năm.
21 triệu nạn nhân
Theo ước tính năm 2012 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), 21 triệu người, tức 3 trong số 1.000 người trên toàn thế giới bị mắc kẹt trong các công việc họ bị ép buộc hoặc lừa dối, hay nói cách khác là bị lao động cưỡng bức. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương chiếm số lượng lao động cưỡng bức lớn nhất thế giới với 11,7 triệu người (56%), tiếp theo là châu Phi 3,7 triệu người (18%) và Mỹ Latin 1,8 triệu người (9%).
Trong 21 triệu nạn nhân, có 18,7 triệu người (90%) được khai thác bởi các cá nhân hoặc doanh nghiệp tư nhân. Trong đó, 4,5 triệu người (22%) là nạn nhân của nạn bóc lột tình dục; 14,2 triệu người (68%) là nạn nhân của  bóc lột sức lao động trong các hoạt động kinh tế, như nông nghiệp, xây dựng, công việc nội địa hoặc sản xuất; khoảng 2,2 triệu người (10%) ở dạng lao động cưỡng bức do nhà nước áp đặt, như trong các nhà tù, trong công việc do quân đội nhà nước hoặc lực lượng vũ trang nổi dậy áp đặt. Có 5,5 triệu nạn nhân (26%) dưới 18 tuổi.
Số nạn nhân có tỷ lệ cao nhất ở khu vực Trung và Đông Nam châu Âu và châu Phi, tương ứng  4 người trên 1.000 dân. Khu vực các nền kinh tế phát triển và Liên minh châu Âu (EU) là nơi có tỷ lệ thấp nhất, với 1,5 nạn nhân trên 1.000 dân. Báo cáo về buôn bán lao động, bóc lột tình dục và lao động cưỡng bức trong khu vực cũng đưa ra những con số khá lớn. Cụ thể, các nền kinh tế phát triển và EU có 1,5 triệu (7%) lao động cưỡng bức.
Các quốc gia Trung và Đông Nam Âu, Cộng đồng các Quốc gia độc lập 1,6 triệu (7%) nạn nhân. Ước tính khoảng 600.000 (3%) nạn nhân ở Trung Đông; 9,1 triệu nạn nhân (44%) đã di cư trong nước hoặc quốc tế; 11,8 triệu (56%) bị cưỡng bức lao động tại nơi sinh ra hoặc nơi cư trú. 
Nhức nhối nạn buôn người - Kỳ 1: Lao động cưỡng bức ảnh 1 Người già và trẻ em là nạn nhân của việc bóc lột sức lao động. 
50 tỷ USD/năm
Theo ước tính của ILO, tính đến năm 2014, tổng số lợi nhuận thu được từ việc sử dụng lao động cưỡng bức trong các nền kinh tế tư nhân toàn cầu lên tới 150 tỷ USD mỗi năm. Phần lớn lợi nhuận được tạo ra ở châu Á. Lợi nhuận hàng năm trên mỗi nạn nhân cao nhất trong các nền kinh tế phát triển (34.800USD/nạn nhân), tiếp theo là các quốc gia ở Trung Đông (15.000USD/nạn nhân), thấp nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương (5.000USD/nạn nhân) và ở châu Phi (3.900USD/nạn nhân).
Trên toàn cầu, 2/3 số lợi nhuận từ lao động cưỡng bức, đặc biệt cưỡng bức tình dục, ước tính 99 tỷ USD/năm. Trong đó tiền lương và chi phí trung gian chiếm khoảng 30% tổng thu nhập của việc cưỡng bức khai thác tình dục. Nạn nhân của việc bóc lột sức lao động, kể cả trong công việc nội địa, nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác, tạo ra khoảng 51 tỷ USD lợi nhuận mỗi năm. Trong đó, các sản phẩm từ lao động cưỡng bức trong nông nghiệp, bao gồm cả lâm nghiệp và đánh bắt cá, ước tính 9 tỷ USD/năm. Lợi nhuận cho các hoạt động kinh tế khác ước tính khoảng 34 tỷ USD/năm, bao gồm xây dựng, sản xuất, khai thác và tiện ích. 
Cuối cùng, ước tính các hộ tư nhân sử dụng lao động trong điều kiện lao động cưỡng bức tiết kiệm khoảng 8 tỷ USD/năm, bằng cách không trả tiền hoặc trả lương thấp cho nhân công của họ. Dựa trên thông tin trong Cơ sở dữ liệu toàn cầu năm 2012, có thể ước tính người bị cưỡng bức lao động chỉ được trả trung bình 40% tiền lương đáng ra họ được nhận. Trong khi đó, lợi nhuận bình quân đầu người cao nhất trong khai thác tình dục cưỡng bức do khách hàng sẵn sàng trả giá cao, cộng với vốn đầu tư và chi phí hoạt động thấp.

Điểm nóng Trung Quốc
Một trong những quốc gia nóng về tình trạng lao động cưỡng bức là Trung Quốc, nơi nhiều thập niên qua được biết đến như công xưởng của thế giới, theo The Diplomat. Dù vậy, thực tế này lại là vấn đề nhạy cảm ở Trung Quốc, thậm chí các tổ chức nước ngoài cũng thường né tránh vì ngại đụng chạm quyền lợi với đối tác lớn này. Trong thập niên qua, chỉ một số rất ít trường hợp lao động cưỡng bức ở Trung Quốc đã được đưa ra ánh sáng.
Vụ đầu tiên và tồi tệ nhất bị phanh phui là vụ những nô lệ lao động gồm người già, trẻ em và người khuyết tật trong một lò gạch ở tỉnh Sơn Tây. Vào mùa hè năm 2007, nhiều thông tin công khai cho biết nhiều người ở nông thôn đã bị bắt cóc và buộc phải làm việc trong các lò nung ở tỉnh Sơn Tây. Vụ việc được phát hiện khi các bậc cha mẹ đi tìm kiếm những đứa con mất tích của họ. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc đã phanh phui các điều kiện nô lệ phổ biến trong các lò nung, nạn buôn người có tổ chức và sự bàng quan của các cộng đồng địa phương, và đôi khi là sự liên quan trực tiếp của chính quyền địa phương.
Một ngành nhạy cảm với lao động cưỡng bức khác là xây dựng. Trong ngành này, tiền lương bị giữ lại tới 1 năm và người lao động không có hợp đồng lao động, phải làm thêm giờ quá mức. Họ phụ thuộc vào chủ thầu về nhà ở và thực phẩm do không được trả lương. Hầu hết công nhân xây dựng bị lâm vào cảnh này là dân nhập cư từ nông thôn, bị phân biệt đối xử.
Tình trạng giữ lương đã diễn ra hàng chục năm và được chính phủ công nhận. Mỗi năm nhà chức trách vận động để thu hồi khoản tiền này. Riêng tại tỉnh Chiết Giang, năm 2016 đã thu hồi được 460 triệu USD để phân phối lại cho 258.000 công nhân. Tuy nhiên, còn rất nhiều người lao động đã không được giúp đỡ.
Ngoài nạn cưỡng bức lao động tại các doanh nghiệp, Trung Quốc còn bị phê phán về hệ thống các trại cải tạo lao động của nhà nước, thực chất là những cơ sở bóc lột sức lao động các tù nhân. Hồi tháng 8-2018, báo cáo của LHQ cho biết có tới 1 triệu người Duy Ngô Nhĩ bị giam giữ trong các trại lao động cưỡng bức ở Tân Cương, mà Bắc Kinh gọi là “trung tâm đào tạo nghề”.
 Nhờ những sản phẩm có chi phí lao động gần như bằng không, cùng với những sản phẩm có chi phí lao động thấp khác, hàng hóa Trung Quốc giờ đây đã thống trị thị trường thế giới, bất chấp những lời tố cáo vi phạm nhân quyền từ nhiều chính phủ. 

(Còn tiếp)

Các tin khác