Tiếp tục cải thiện, đổi mới thể chế kinh tế

(ĐTTCO) - Bước vào quý III, Chính phủ đã có những nhìn nhận lại về bối cảnh kinh tế mới, từ đó có những động thái chính sách linh hoạt hơn. Chính phủ nhấn mạnh ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô trong những tháng cuối năm, qua đó tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho việc tiếp tục cải thiện nền tảng về phía cung. 
Tiếp tục cải thiện, đổi mới thể chế kinh tế
Cùng với định hướng lớn về tái cơ cấu kinh tế là việc đẩy mạnh cải cách thể chế, tháo gỡ khó khăn, cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, đổi mới và sáng tạo…
Kinh tế thế giới biến động khó lường
Tại hội thảo “Kinh tế Việt Nam: Tiếp tục khơi dòng cải cách và củng cố niềm tin đầu tư” tổ chức hôm qua 17-10, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), nhận định kinh tế thế giới nhìn chung vẫn tiếp tục tăng trưởng khá, nhưng chịu không ít rủi ro suy giảm.
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2018 và 2019 xuống còn 3,7%. Xu hướng hạn chế thương mại, leo thang xung đột thương mại giữa các nền kinh tế lớn, bình thường hóa chính sách tiền tệ ở các nước lớn… đã làm giảm đáng kể tổng cầu nói chung và nhu cầu thương mại hàng hóa. Bất ổn địa chính trị ở nhiều khu vực chưa được tháo gỡ.
Kinh tế Hoa Kỳ chưa có dấu hiệu suy giảm, ngay cả khi mở rộng phạm vi áp thuế đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Nhật Bản đã tăng trưởng dương trở lại, chủ yếu là nhờ tiêu dùng tư nhân và đầu tư khả quan. Khu vực đồng euro tăng trưởng 0,4% trong quý II; bất định xung quanh đàm phán Brexit, vấn đề người nhập cư… sẽ tiếp tục đe dọa ổn định và tăng trưởng của nhiều nền kinh tế cũng như cả khu vực nói chung.
Kinh tế Trung Quốc có dấu hiệu giảm tốc. Xung đột thương mại giữa Hoa Kỳ và các nền kinh tế lớn, đặc biệt là Trung Quốc, tiếp tục leo thang. Đồng USD tiếp tục lên giá so với các đồng tiền chủ chốt. Giá dầu thế giới bật tăng trong tháng 9, sau giai đoạn điều chỉnh giảm trong tháng 7-8. Ngoại trừ giá nhóm hàng năng lượng có xu hướng tăng, chỉ số giá các nhóm hàng quan trọng khác đều có xu hướng giảm kể từ đầu năm. 

Tăng cường giám sát vốn, hàng hóa vào Việt Nam 
Trong bối cảnh kinh tế thế giới trên, môi trường đầu tư - kinh doanh của Việt Nam vẫn được cải thiện; niềm tin của cộng đồng DN trong nước và nước ngoài vẫn tích cực. Tuy nhiên, theo CIEM, công tác cải cách và điều hành trong quý III cho thấy chất lượng của công tác tái cơ cấu kinh tế chậm được cải thiện so với yêu cầu; việc điều chỉnh chính sách thuế còn cứng nhắc, chưa giúp giảm áp lực/kỳ vọng lạm phát trong nước để phối hợp với chính sách tiền tệ ứng phó hiệu quả hơn với tác động bất lợi từ những động thái leo thang chiến tranh thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc; mong muốn về một chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chọn lọc hơn cần đi kèm với những đề xuất giải pháp đủ cụ thể, phù hợp với bối cảnh thế giới nhiều bất định…
“Tốc độ tăng GDP đạt 6,88% trong quý III và 6,98% trong 9 tháng cao hơn cùng kỳ nhiều năm trước đó. Áp lực thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong quý IV giảm đáng kể. Dù vậy, Việt Nam vẫn chưa trở lại quỹ đạo tăng trưởng cao từng đạt được trong giai đoạn 1990-2006” - báo cáo nhận xét.
Quý III chứng kiến những diễn biến phức tạp hơn của chỉ số giá tiêu dùng (CPI): giảm 0,09% trong tháng 7, sau đó tăng lần lượt 0,45% và 0,59% trong tháng 8 và 9. CPI bình quân tăng 4,14% trong quý và 3,57% trong 9 tháng. Dù có lo ngại về rủi ro lạm phát tại một số thời điểm, mục tiêu lạm phát năm 2018 (bình quân 4%) có khả năng đạt được. Lạm phát cơ bản vẫn tương đối ổn định ở mức thấp.
Trong 9 tháng, CPI chủ yếu chịu tác động từ các nhân tố như tăng giá nhóm hàng lương thực - thực phẩm; tăng giá nhóm dịch vụ công theo lộ trình; xu hướng tăng giá xăng dầu thế giới và điều chỉnh kỳ vọng lạm phát.
Theo báo cáo, diễn biến kinh tế vĩ mô trong quý IV có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố. Thứ nhất, còn phụ thuộc vào khả năng đàm phán thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, cũng như độ nhất quán chính sách của Hoa Kỳ sau bầu cử giữa kỳ.
Thứ hai, thị trường tài chính thế giới nói chung và các thị trường mới nổi dễ bị tổn thương trước xu hướng gia tăng bảo hộ và biến động của dòng vốn đầu tư.
Thứ ba, các nền kinh tế chủ chốt chưa công khai can thiệp trực tiếp vào chính sách tỷ giá. Thứ tư, tiến triển trong quá trình đàm phán/phê chuẩn một số hiệp định thương mại tự do mới (RCEP, CPTPP, EVFTA) có thể củng cố niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. 
Với những cân nhắc trên, cam kết ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu kinh tế là cần thiết, song chưa đủ. Việt Nam cần nhiều hơn khả năng giám sát lưu chuyển vốn và hàng hóa từ các thị trường vào và cách tiếp cận linh hoạt, thực dụng trong quan hệ kinh tế với các đối tác chủ chốt.
Vì thế, báo cáo nhấn mạnh thông điệp cần tiếp tục tập trung cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế theo hướng thân thiện hơn với sáng tạo và môi trường, gắn với xử lý hiệu quả những rủi ro trong môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động. Đó là cải cách nền tảng kinh tế vi mô, song song với các biện pháp kinh tế vĩ mô và một số biện pháp liên quan như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả, tiền lương, chính sách FDI.

Các tin khác