Tiêu chí an cư bền vững

(ĐTTCO) - Tại TPHCM, chương trình kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè thành công về việc giải phóng được con kênh, nhưng không thành công lắm trong việc tái định cư.
Tiêu chí an cư bền vững
 Trong những năm tới đây, TPHCM tiếp tục giải tỏa 26.000 dân ở kênh Đôi nhằm tăng năng lực thoát nước, làm đẹp cảnh quan và sạch môi trường. Do vậy, vấn đề đặt ra làm sao để người dân “an cư phải bền vững sau di dời”, như Ngân hàng Thế giới kiến nghị.
Kinh nghiệm từ 2 dự án lớn

TPHCM có 2 dự án tái định cư trên kênh rạch. Một là dự án Nhiêu Lộc-Thị Nghè giai đoạn 1 kéo dài 19 năm từ 1993 đến 2012, với số tiền đầu tư vào khoảng 9.000 tỷ đồng, di dời giải tỏa hơn 7.000 hộ dân với gần 50.000 nhân khẩu sống trên đoạn kênh có độ dài khoảng 7km.
Hai là “Dự án thí điểm cải thiện vệ sinh và nâng cấp đô thị kênh Tân Hóa - Lò Gốm”, còn gọi là dự án 415 kéo dài 7 năm, khởi công từ 1998 hoàn thành năm 2005 do chính phủ Bỉ tài trợ, tái định cư cho 166 hộ dân sống trên một đoạn kênh chảy qua địa phận phường 11, quận 6. 

Ở dự án Nhiêu Lộc-Thị Nghè, phần lớn những người dân được đưa vào các chung cư như Rạch Miễu, Hiệp Bình Phước, Trần Quốc Thảo, Nguyễn Đình Chiểu (1A, 1B)... Năm 2003, chúng tôi có làm một cuộc khảo sát các chung cư thuộc diện này trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu khía cạnh văn hóa-xã hội về loại hình nhà ở tại TPHCM: Lịch sử-hiện trạng-khuynh hướng”.
Kết quả thu được cho thấy 72% người dân thuộc nhóm tái định cư không hài lòng với cuộc sống chung cư, sau 10 năm (2003) số người dân sống ở chung cư Trần Quốc Thảo còn 60%, ở Hiệp Bình Phước thấp hơn 50%.
Dự án 415, số tái định cư tại chỗ 72 hộ, sau 10 năm số hộ còn trụ lại 90%,  chỉ có 7 hộ (10%) đi nơi khác do bán nhà trả nợ. Trong khi đó, số thuộc diện tái định cư di dời đến  chung cư tái định cư Bình Hưng Hòa A là 94 hộ, nay chỉ khoảng 40% còn ở lại. Vậy chúng ta rút ra được những bài học kinh nghiệm gì từ 2 dự án này cho dự án Kênh Đôi tới đây?

Cần cái nhìn thực tế 

Khi sống ở các chung cư họ mất cơ hội mưu sinh. Khi sống ở trên kênh rạch, đúng là có nhếch nhác, bẩn thỉu nhưng họ lại có việc làm đơn giản hàng ngày, có chỗ bán hàng ngay ở cửa nhà, dễ dàng khi đi bán hàng rong và làm thợ đụng.
Ở chung cư họ không có chỗ để xe ba gác, xe xích lô, xe hủ tiếu, mì gõ. Khi chuyển lên căn hộ chung cư, họ phải chi nhiều cho các loại dịch vụ quản lý mà ở trên kênh không phải trả như dịch vụ bảo vệ, đèn chiếu sáng, bơm nước, gửi xe, tưới cây, vệ sinh công cộng, đổ rác... Những loại phí này ít nhất cũng 300-400.000 đồng/tháng.

Với người nghèo, chỗ ở cũng là chỗ để sản xuất, làm ăn. Nhà ở phải là nơi có thể buôn bán hàng tạp hóa, buôn bán rau quả, buôn bán cà phê; nhà ở là nơi sản xuất hàng thủ công như làm hàng mã, làm nhang, làm bánh, gia công hàng hóa, may vá, cắt tóc... trong khi căn hộ dành cho tái định cư rất nhỏ, thường là 42m2, nhiều nhất cũng chỉ 60m2, nhân khẩu của các hộ gia đình rất cao khoảng 6-7 người/hộ, tính ra mỗi đầu người chỉ khoảng 4,7m2 diện tích sử dụng. Với diện tích ấy không thỏa mãn được nhu cầu thực tế của người dân tái định cư.
Như vậy việc tái định cư di dời các hộ dân ở ven kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè tới chung cư Hiệp Bình Chánh và ở dự án 415 di chuyển 94 hộ dân đến chung cư tái định cư Bình Hưng Hòa A, đã làm cho họ mất “vốn xã hội” (social capital) và bị tách ra khỏi “mạng lưới xã hội” (social network) đã có từ trước. Và khi họ bị tách ra khỏi cộng đồng quen thuộc vốn đã sống rất lâu, cũng là mất đi những mối làm ăn. 

Từ 2 trường hợp trên cho thấy người dân khi được tái định cư tại chỗ sẽ cảm thấy an tâm hơn, đưa họ ra khỏi địa bàn quen thuộc không chỉ làm cho khó khăn trong làm ăn mà còn làm họ thấy bất an về tâm lý, vì cảm thấy mất chỗ dựa về tinh thần. 

Đề xuất căn hộ tái định cư 

Theo quan niệm truyền thống nhà chỉ để ở, tái tạo sức khỏe và tâm lý, không làm cái gì khác, như Le Corbuse quan niệm “nhà là cái máy ở”. Điều này hoàn toàn đúng với giới công chức, doanh nghiệp, những người làm công ăn lương.
Nhưng không hẳn đúng với người nghèo, với họ phải là “nhiều trong một” mới là tối ưu. Tức các chức năng ở, sinh hoạt, sản xuất, thương mại, thiết lập quan hệ xã hội phải lồng vào nhau trong một không gian “đa chức năng”. 

Từ dự án 415 cho thấy, nhóm kiến trúc sư (KTS) người Pháp là Villes en Transition sau khi tham vấn cộng đồng và các chuyên gia địa phương, đã đưa ra một kiểu thiết kế nhà được người dân tán đồng, và có lẽ đó là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến họ ở lại lâu dài:  Căn hộ tái định cư thường nhỏ, không thể lớn được vì người dân không có tiền mua, cho dù giảm giá, hỗ trợ lãi suất thấp.
Những căn hộ như vậy thường là 40-50m2, quá nhỏ so với số nhân khẩu một hộ tái định cư từ 6 người trở lên, với diện tích nhỏ này các chức năng sản xuất, buôn bán không thể thực hiện được.
Do vậy, nhóm thiết kế này đã nâng cao trần lên đến 5 mét và chừa không gian cho họ tự làm gác lửng để ngủ, còn mặt bằng sàn là không gian mưu sinh. Hầu như tất cả các hộ gia đình ở chung cư tái định cư này sử dụng mặt bằng sàn làm nơi sản xuất và buôn bán.                       
Nhóm KTS thiết kế hành lang rất rộng, hơn 3 mét, có nơi hơn 4 mét. Hành lang này không đơn giản là để đi lại giữa các tầng mà thực sự là nơi họ mưu sinh, để buôn bán, để đồ sản xuất và là nơi gặp gỡ, chuyện trò, tâm tình với nhau hàng ngày.
Chính hành lang này là nơi thiết lập quan hệ xã hội. Những người giàu có, khá giả có xu hướng khép kín trong căn hộ chung cư, thì người nghèo lại có xu hướng “mở ra” với cộng đồng. 
Giải tỏa một con kênh và tái định cư cho người sống trên kênh rạch là một bài toán phức hợp rất khó, bởi nó là sự kết hợp của kinh tế-văn hóa- xã hội với kỹ thuật và tài chính. Nếu coi nặng việc giải phóng con kênh mà coi nhẹ các mặt khác thì kết cục là con kênh sạch đẹp, thông thoáng, còn khu ổ chuột lại di chuyển đến một nơi khác. Bài toán tái định cư thành công không chỉ chú trọng những vấn đề kỹ thuật như quy hoạch, kiến trúc, tổ chức không gian, xây dựng, đền bù giải tỏa, mà phải hướng đến tái định cư bền vững.

Các tin khác