THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (FDI)

Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI): “Trải thảm” để được lợi gì?

(ĐTTCO) - Vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong những năm qua đã được khẳng định, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

Các chính sách ưu đãi, mời gọi đầu tư đã khiến dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ. Thế nhưng, những ưu đãi với khu vực FDI cũng đang tạo ra sự thiếu công bằng với doanh nghiệp (DN) trong nước, đòi hỏi chính sách phải có sự điều chỉnh.

Từ câu chuyện mô hình đặc khu
Tuần qua, Quốc hội đã thảo luận về Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (ĐKKT). Đây là dự luật được coi quan trọng để có thể thu hút đầu tư, tạo động lực phát triển mới. Vì thế, dự luật đã đề xuất một loạt chính sách ưu đãi vượt trội so với các quy định hiện hành.
Theo quy định hiện nay, mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập DN đối với một số lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư đang được áp dụng tại các KKT, khu công nghệ cao là 10% trong thời hạn 15 năm; miễn 4 năm và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo. Thế nhưng, dự thảo luật ĐKKT kéo dài thời gian áp dụng mức thuế ưu đãi 10% lên tới 30 năm, đồng thời mở rộng diện áp dụng sang các dự án trong các ngành nghề ưu tiên phát triển của từng ĐKKT và dự án đầu tư của nhà đầu tư chiến lược (NĐTCL).
Theo đó, NĐTCL phải đáp ứng một trong các điều kiện: trên 44.000 tỷ đồng với lĩnh vực du lịch vui chơi giải trí, trên 12.000 tỷ đồng với dự án đầu tư kết cấu hạ tầng, trên 6.000 tỷ đồng với các dự án thuộc ngành nghề ưu tiên phát triển của từng khu. Cùng với đó, các ưu đãi về thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân đều có sự mở rộng đáng kể.
 Người được cấp quyền sử dụng đất 99 năm là NĐTCL, nhưng khái niệm NĐTCL lại rất dễ dãi. Nếu 30 năm dự án của NĐT thất bại, ta có thu hồi đất không. Vì thế, dự luật phải có cơ chế để các bộ ngành được quyền tham gia ý kiến trong trường hợp nhận thấy có nguy cơ ảnh hưởng đến chủ quyền, lợi ích quốc gia. Dự án thất bại phải trả lại đất, nếu muốn thay đổi sang ngành nghề khác phải xem xét cấp phép lại.
Luật sư Trương Trọng Nghĩa
Theo nhiều chuyên gia, cần cân nhắc việc ưu đãi cho các dự án đầu tư của NĐTCL với các dự án dịch vụ, du lịch và vui chơi giải trí tổng hợp có casino với quy mô vốn đầu tư tối thiểu 44.000 tỷ đồng. Bởi hiện nay tại 3 ĐKKT dự kiến tiếp nhận rất nhiều các dự án đầu tư khu du lịch, dịch vụ có quy mô lớn khi chưa có ưu đãi đầu tư nào. Vậy việc đưa các dự án này vào danh mục ưu đãi đầu tư ưu tiên cao nhất có cần thiết?
Đối với các casino, trở ngại lớn nhất trong thời gian qua chính là quy định về việc người Việt Nam có được phép vào casino chứ không phải là ưu đãi thuế. Như vậy, nếu đặt ra ưu đãi nhưng không cho phép người Việt Nam vào casino cũng không thể thu hút các dự án casino, và ngược lại nếu đã cho người Việt vào casino ưu đãi trở thành lãng phí.
Về đất đai, dự thảo luật đề xuất thời hạn sử dụng đất tối đa 99 năm cho các dự án trong các ngành nghề ưu tiên phát triển của từng ĐKKT và dự án đầu tư của NĐTCL, đồng thời miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong toàn bộ thời gian thuê đối với các dự án đầu tư loại này.
Với những ưu đãi vượt trội “miễn 4, giảm 9 và ưu đãi 10% trong 30 năm, miễn tiền thuê đất trong 99 năm”, các địa phương khác trên cả nước sẽ rất khó cạnh tranh trong việc thu hút NĐT trong các lĩnh vực tương tự. Như vậy, ngoại trừ lĩnh vực casino, một khả năng lớn là NĐT tiềm năng sẽ bỏ các địa phương còn lại để tập trung vào 3 ĐKKT.

Ưu đãi quá mức, thất thu ngân sách
Số liệu báo cáo từ Bộ Tài chính liên quan đến khối DN FDI, cho thấy thuế thu nhập DN năm 2016 Nhà nước ưu đãi cho DN FDI trên 46.800 tỷ đồng. Tổng hợp các khoản ưu đãi về thuế thu nhập DN, thu nhập cá nhân, tiền sử dụng đất, thuế tiêu thụ đặc biệt… trên 64.200 tỷ đồng. Còn tính trong 3 năm gần đây, số tiền lên tới hơn 117.000 tỷ đồng. Dù chính sách ưu đãi được nhìn nhận đã góp phần thu hút đầu tư, giúp DN tăng tích lũy, mở rộng sản xuất... nhưng Bộ Tài chính cũng thừa nhận tác động của ưu đãi thuế với phân bổ nguồn lực đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn nhà nước khuyến khích còn hạn chế. 
 Tăng trưởng kinh tế hiện nay vẫn đang phụ thuộc nhiều vào ngoại lực, chủ yếu tập trung một số tập đoàn đa quốc gia lớn, nên đang bộc lộ những bất ổn, không bảo đảm tính bền vững. DN FDI được hưởng nhiều ưu đãi, nhưng hầu như nền kinh tế trong nước hiện nay không khai thác được lợi thế của khối DN này. Đặc biệt, Việt Nam chưa có giải pháp căn cơ để tận dụng các cơ hội thuận lợi từ DN FDI để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao hơn.
Ông Vũ Hồng Thanh, 
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
Việc ưu đãi thuế thu hút FDI cũng đang làm cho ngân sách giảm thu đáng kể, tạo sự bất bình đẳng với DN trong nước. Thí dụ, trong khi DN FDI được miễn giảm, nhận được tổng ưu đãi tới 91,9% tổng số thuế thu nhập DN phải nộp, thì DN ngoài quốc doanh và DNNN chỉ được ưu đãi lần lượt 17,8% và 4,8%.
Ông Phạm Trọng Nhân, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nhìn nhận DN FDI đã bổ sung nguồn lực quan trọng cho quá trình tăng trưởng. Sau 25 năm khu vực này đã đóng góp cho GDP từ 2% năm 1992 lên 20% năm 2016, giải quyết việc làm cho hơn 2 triệu lao động, góp phần nâng thu nhập bình quân đầu người hơn 2.000USD.
Thế nhưng, dù chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và 50% giá trị sản xuất công nghiệp, nhưng khu vực này chỉ đóng góp vào ngân sách 15-19%, thấp nhất trong 3 khu vực DN. Thống kê giai đoạn 2007-2015, cho thấy cả nước có khoảng 50% DN FDI kê khai lỗ, trong đó có nhiều DN thua lỗ liên tục trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, điều ngược đời là càng lỗ DN FDI càng mở rộng sản xuất. 

Theo ước tính của các chuyên gia, mỗi năm Việt Nam thất thu khoảng 170 tỷ USD do hoạt động chuyển giá. Ở góc nhìn khác, chỉ tiêu tăng trưởng tổng hợp từ nhiều yếu tố, trong đó có tổng kim ngạch xuất khẩu, con số 70% tổng kim ngạch xuất khẩu FDI giúp Việt Nam tăng trưởng đã bị chuyển giá đầu vào. Do đó, lợi nhuận từ con số này rất thấp. Vì vậy, dù có thu 20% thuế thu nhập trên con số đó cũng không đáng là bao, thậm chí bằng 0 khi bị báo cáo lỗ, 80% còn lại được FDI chuyển về chính quốc. 

Một trong những mục tiêu thu hút đầu tư là nhằm hấp thụ và nhận chuyển giao công nghệ. Thế nhưng theo thống kê, 80% DN FDI sử dụng công nghệ ở mức trung bình thế giới, 14% ở mức thấp và lạc hậu, chỉ có 5-6% là công nghệ cao. Công đoạn được thực hiện tại Việt Nam đa phần là khâu lắp ráp.
Các chính sách ưu đãi đặc thù cho DN FDI, bao gồm miễn giảm thuế có thời hạn, miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, hoàn thuế cho lợi nhuận tái đầu tư… nhưng chúng ta lại cứng nhắc và khắt khe với chính DN trong nước.
“Câu chuyện Tập đoàn Viettel vỡ mộng khi bị Bộ Tài chính thẳng thừng bác xin ưu đãi thuế giống như Samsung Việt Nam; 2 khoản đầu tư 500 tỷ đồng để phát triển khoa học công nghệ của gốm sứ Minh Long không được hỗ trợ vì thiếu vài thủ tục hành chính, là thí dụ cho thấy việc gánh vác vai trò làm động lực chính cho nền kinh tế còn khó khăn. Vừa bị thất thu thuế, công nghệ lạc hậu, cạn kiệt tài nguyên, nhân công rẻ, thiếu công bằng trong ưu đãi đầu tư… Đã đến lúc chúng ta bình tâm suy xét trước khi quá muộn” - ông Nhân nói. 
Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI): “Trải thảm” để được lợi gì? ảnh 1 Liệu có quá ưu đãi cho doanh nghiệp FDI thời  gian qua? 
Cần được đối xử công bằng
Theo các chuyên gia, nếu chúng ta không có định hướng rõ ràng cho dù có 1 triệu DN theo Nghị quyết 35 (về hỗ trợ, phát triển DN đến năm 2020) cũng chỉ có ý nghĩa trong sự thay đổi về lượng mà thiếu bền vững về chất, đảm bảo cho quá trình tăng trưởng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng cho phát triển nền kinh tế, cùng những chỉ đạo quyết liệt và cam kết kiến tạo một môi trường kinh doanh công bằng của người đứng đầu Chính phủ, đã thổi một luồng sinh khí mạnh mẽ vào môi trường đầu tư kinh doanh.
Tuy nhiên, làm sao cho luồng sinh khí đó được liên tục bền vững và lan tỏa, tạo điều kiện nuôi dưỡng để khu vực kinh tế tư nhân phát triển lớn mạnh, trở thành một nguồn lực chủ yếu cho đất nước trong quá trình tăng trưởng vẫn đang còn bỏ ngỏ.
Thực tế, những ưu đãi quá mức và mối nguy chuyển giá; nhiều tập đoàn lớn của quốc tế kinh doanh, đầu tư hàng chục năm nhưng không đóng thuế khi khai báo lỗ “có chủ động”; mối nguy hại lớn cho môi trường và con người khi các DN nước ngoài tận dụng sự dễ dàng trong chính sách hút vốn đầu tư của Việt Nam… đang khiến chúng ta phải trả giá bằng môi trường.
Theo chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh, một sự cạnh tranh bình đẳng và công bằng cho các thành phần kinh tế để tất cả cùng trở thành động lực cho sự cất cánh của Việt Nam rất cần thiết hơn lúc nào hết. Điều kiện tiên quyết là Nhà nước tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa DN trong nước với DN FDI. Chính sách và cơ chế đối với kinh tế tư nhân dựa trên nguyên tắc cơ bản là bình đẳng, không cần ưu đãi, tôn trọng, chủ động.
TS. Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế, cho rằng hiện chúng ta còn thiếu chính sách ưu đãi riêng cho DN tư nhân. Những chính sách hiện nay hầu hết được thiết kế chung cho tất cả DN và hướng ưu tiên vào khối DN FDI. 

Các tin khác