Thanh toán qua ví điện tử: Tiềm năng chưa khai thác hết

(ĐTTCO) - Ví điện tử (VĐT) là một trong những phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt đang có xu hướng bùng nổ trong thời gian gần đây, tuy nhiên đến nay vẫn còn xa lạ với nhiều người.

 Hiện nay có đến hàng chục thương hiệu do các doanh nghiệp (DN) trong và ngoài nước, nhưng trong bối cảnh “trăm hoa đua nở”, DN sẽ khó trụ vững nếu không có sự đầu tư đúng đắn.  

Xu hướng tất yếu
 Dù số lượng VĐT đang ngày càng xuất hiện nhiều, nhưng trong tương lai chỉ còn 1-2 ví chiếm phần vượt trội thị trường có thể tồn tại vững chắc. Trong đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam mới đây của Chính phủ, kỳ vọng đến năm 2020 Việt Nam sẽ giảm mức này xuống dưới 10%. 
Ông Nguyễn Thanh Hưng, 
Chủ tịch VECOM
Theo Nghị định 80/2016/NĐ-CP ngày 1-7-2016 sửa đổi bổ sung một số điều Nghị định 101/2012/NĐ-CP của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt, VĐT là phương tiện thanh toán được sử dụng trong các giao dịch điện tử do ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức dịch vụ trung gian thanh toán (tổ chức cung ứng VĐT) cung ứng.
VĐT được tạo lập thông qua các phương tiện điện tử, trên vật mang tin (như chip điện tử, sim điện thoại di động, máy tính), cho phép lưu giữ một giá trị tiền tệ, được đảm bảo bằng giá trị tiền gửi tương đương số tiền được người gửi chuyển từ tài khoản thanh toán hoặc tiền mặt vào tài khoản VĐT của tổ chức cung ứng theo tỷ lệ 1:1. Tài khoản đảm bảo thanh toán cho việc cung ứng VĐT là tài khoản bằng đồng Việt Nam được mở tại các ngân hàng.

Nghị định mới này được cho khá hoàn thiện đối với môi trường kinh doanh của dịch vụ thương mại điện tử, giúp thị trường VĐT sôi động hơn. Giữa tháng 6 vừa qua, DN thanh toán trực tuyến của Nga là WebMoney đã chính thức giới thiệu tại thị trường Việt Nam VĐT với tên gọi WebMoney Việt Nam (WMV).
Lý giải về sự xuất hiện trở lại này, ông Nguyễn Ảnh Nhượng Tống, CEO WMV, cho biết WebMoney là hệ thống thanh toán quốc tế thành lập năm 1998 tại Nga và có mặt tại Việt Nam năm 2013. Tuy nhiên, thời điểm này thị trường thanh toán trực tuyến tại Việt Nam chưa phát triển, quy định quản lý dịch vụ này cũng chưa hoàn thiện nên MWV đã không thành công như mong đợi.
Lần trở lại này, WMV tung ra phiên bản tài chính toàn cầu nhằm đón đầu xu hướng cách mạng 4.0, với những cải tiến đáng kể, như giải quyết nhu cầu chuyển tiền, mua sắm trên toàn cầu, không chỉ giới hạn tại Việt Nam. Bên cạnh đó, WMV còn đem đến cơ hội tiếp cận, mở rộng thị trường cho các DN khởi nghiệp cần kêu gọi vốn. Đây được xem là giải pháp ươm mầm cho các startup tiềm năng để hình thành các startup triệu USD ở Việt Nam, cũng như tăng thêm thu nhập từ mạng xã hội. 

Lợi thế của VĐT là người dùng cá nhân có thể mua sắm online trên toàn thế giới không cần dùng tiền mặt. Lấy đơn cử như WMV còn tích hợp với Facebook, Youtube để giúp người dùng có thể biến mạng xã hội thành hệ thống thanh toán. Ngoài kênh trực tuyến, WMV còn chủ động phát triển kênh ngoại tuyến bằng việc bắt tay với nhà phân phối Mesa (hiện phân phối cho Unilever), đặt mục tiêu cho cả 2 bên là 10.000 điểm bán hàng sử dụng WMV để thanh toán.

Trước khi có sự xuất hiện của WMV, thị trường VĐT đã diễn ra khá sôi động với hàng loạt thương hiệu như MoMo, Money Lover, VinaPay, Payoo, Ngân lượng, Mobivi... Đó là chưa kể đến các ông lớn trong lĩnh vực trực tuyến đang chờ thời cơ thích hợp để tung ra các sản phẩm VĐT của mình, như Vinagame với VĐT Zalopay.
Theo thống kê của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM), hiện có gần 20 VĐT đang hoạt động. Điều này cho thấy thị trường thanh toán VĐT đang dần hấp dẫn người tiêu dùng. Một khảo sát trên phạm vi toàn cầu mới đây của Hãng kiểm toán PwC, trong vòng 5 năm tới, 24% thị phần ngân hàng trong mảng chuyển tiền và thanh toán sẽ rơi vào tay các công ty công nghệ tài chính (fintech). Chỉ mới thanh toán nhỏ lẻ
Ngoài 16 DN đang hoạt động trên thị trường, còn hàng chục DN khác đang thử nghiệm và chờ nhận giấy phép. Tuy nhiên, khi số lượng VĐT quá nhiều, cho thấy độ loãng của thị trường nên sự sàng lọc mạnh sẽ diễn ra trong thời gian tới.
Ông Nguyễn Ảnh Nhượng Tống
CEO WMV
Một lý do quan trọng khác giải thích cho sự bùng nổ của các trung gian thanh toán là quy định pháp luật đang dần hoàn thiện hơn. Cụ thể cuối năm 2015, NHNN bắt đầu cấp giấy phép hoạt động cho các công ty phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực trung gian thanh toán, sau thời gian dài thí điểm VĐT năm 2008.
Tính đến nay đã có khoảng 16 công ty được cấp phép chính thức, phần lớn là những VĐT cũ được thí điểm và hàng chục công ty khác đang chờ được cấp phép. Những VĐT này đang nhận được dòng tiền mới để tăng năng lực cạnh tranh bằng cách đi vào những thị trường ngách.

Trên thực tế, trong năm qua các nhà phát triển công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như MoMo, Payoo đều tung ra những giải pháp khai thác triệt để thị trường thẻ thông minh Việt Nam ở tất cả phân khúc, bao gồm các DN nhỏ và siêu nhỏ, hộ kinh doanh. Đặc biệt, thị trường này sôi động hơn với sự cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ lớn.
Đơn cử như Công ty Dịch vụ di động trực tuyến M-Service, chủ VĐT MoMo, đã tiếp cận được dịch vụ thu tiền cước của các công ty lớn như VinaPhone, MobiFone, VNPT, VTV, FPT, Viettel, EVN, Prudential Finance, AVG... Theo số liệu MoMo công bố, hệ thống phân phối MoMo trải rộng với 3.000 điểm giao dịch, 100.000 điểm bán lẻ, 500.000 khách hàng sử dụng VĐT. 

Tuy vậy, nhiều DN cũng thừa nhận những khó khăn trong lĩnh vực VĐT. Đó là việc thiết bị, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta mới có vài nhà phát triển, nhà cung cấp nhỏ nên rất khó cạnh tranh. Phần lớn các tiện ích của chỉ xoay quanh các dịch vụ như nạp tiền điện thoại, chuyển tiền, thanh toán thẻ, hóa đơn, mua vé xe, xem phim hay giải trí khác. Và các tiện ích này vẫn chỉ gói gọn trong nước, chưa thể vươn xa ra toàn cầu. 

Theo số liệu của VECOM, hiện nay tại nước ta có khoảng 20 thương hiệu VĐT nhưng nếu không có dịch vụ mới cũng như tiện ích phong phú đi kèm để thu hút người dùng, những nhà cung cấp dịch vụ thanh toán VĐT rất khó có cơ hội cạnh tranh. Thực tế cho thấy các nhà phát triển VĐT đang linh hoạt thay đổi trước sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường.
Song đến nay vẫn chưa có VĐT nào chiếm lĩnh thị trường, mà chủ yếu phục vụ riêng cho hệ sinh thái hướng đến của nhà đầu tư. Trong khi đó, người tiêu dùng vẫn chưa thật sự hưởng lợi nhiều từ sự nở rộ của các loại hình VĐT hiện nay. Thậm chí, nhiều chuyên gia còn lên tiếng cảnh báo về tình trạng lừa đảo trong các giao dịch thương mại điện tử thông qua VĐT.

Theo nhận dịnh của các chuyên gia, các DN phát triển VĐT vẫn đang trong giai đoạn vừa học vừa làm. Có DN phát triển công cụ thanh toán dựa trên hệ sinh thái có sẵn như cách WMV đang làm. Trong khi có DN tập hợp nhiều người bán lại rồi mới quảng cáo cho sản phẩm (hay làm song song với nhau).
Điển hình cho phương thức này là MoMo với dịch vụ chuyển các khoản tiền giá trị nhỏ giữa người dùng và thanh toán dịch vụ tại các điểm giải trí. Còn Payoo chọn hướng giải quyết bài toán thanh toán hóa đơn cho các hộ gia đình thông qua các điểm giao dịch.
Gần đây, Payoo cũng bắt tay với Ngân hàng TMCP Quốc dân (NCB) giúp thanh toán các khoản vay ngân hàng qua mạng lưới giao dịch của VĐT này. Dù khác nhau về mục tiêu và sản phẩm, nhưng điểm chung của thương hiệu VĐT này là thuyết phục các điểm bán chấp nhận phương thức thanh toán mới, thuyết phục khách hàng đang giao dịch ở các điểm bán đó sử dụng công cụ thanh toán của mình.
Thanh toán qua ví điện tử: Tiềm năng chưa khai thác hết ảnh 1
Ngân hàng là đối tác quan trọng
Có thể nói, dù phát triển theo hướng nào, DN cũng phải tìm được cho mình đối tác thích hợp để phát triển. Điều này phần nào được thể hiện qua những động thái rót vốn vào DN phát triển VĐT trong thời gian qua.
Đáng kể nhất là thương vụ Standard Chartered Private Equity và Goldman Sachs rót 28 triệu USD vào MoMo; Công ty Truyền thông VMG bán 62,25% cổ phần trong VĐT VNPT Epay cho nhà đầu tư đến từ Hàn Quốc UTC Investment; CTCP Dịch vụ trực tuyến cộng đồng Việt (VietUnion) với dịch vụ thanh toán VĐT Payoo nâng vốn lên 150 tỷ đồng, sau khi nhượng lại 40% cổ phần cho Công ty NTT Data (Nhật Bản). Ngay như WMV, dù được sự hậu thuẫn mạnh từ tập đoàn mẹ nhưng trong chiến lược phát triển sắp tới, DN này cho biết sẽ bắt tay với các đối tác lớn, đặc biệt là các tổ chức tài chính.
Cụ thể, việc hợp tác với Ngân hàng TMCP Kiên Long thực hiện chương trình phát hành thẻ đồng thương hiệu, hay bắt tay với VinaCapital phát triển hệ thống nạp tiền độc quyến cho chương trình tài chính tiết kiệm của quỹ đầu tư này.

Theo dự báo của VECOM, quy mô thương mại điện tử của Việt Nam có thể đạt 10 tỷ USD vào năm 2020 với tốc độ tăng trưởng khoảng 22%/năm. Đây là con số khả quan và có thể đạt được cho thị trường dân số 92 triệu người, trong đó 28% đã tham gia mua sắm trực tuyến với mức chi tiêu 160USD/người/tháng (chiếm 2,8% tổng mức bán lẻ).
Tuy nhiên, theo thống kê tỷ lệ thanh toán trực tuyến trên tổng giao dịch thương mại vẫn còn rất thấp, đạt 5% vào năm 2014 và tăng nhẹ lên 7% năm 2015, bởi thực trạng ưa thích dùng tiền mặt để thanh toán vẫn đang rất phổ biến ở Việt Nam. 

Để giải quyết bài toán này, cần sự chung tay của các DN phát triển VĐT và các thể chế tài chính, cụ thể là các ngân hàng. Theo đó, ngân hàng cần nỗ lực khuyến khích việc thanh toán qua thẻ tín dụng hoặc VĐT. Và đây là thời điểm hợp lý để các ngân hàng tìm kiếm sự hợp tác với các fintech nhằm mở rộng lượng người dùng, đồng thời khuyến khích giao dịch trực tuyến thông qua thương mại điện tử. 

Các tin khác