Yêu cầu cải thiện môi trường kinh doanh

Tư duy né thị trường

(ĐTTCO) - Để nền kinh tế và doanh nghiệp hội nhập thành công, không có cách nào khác là Nhà nước phải tạo ra một môi trường kinh doanh đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp. Nói cách khác, Nhà nước phải không “sợ” thị trường.

 

Tư duy né thị trường

Nghiên cứu “Một số vấn đề cơ bản của tái cơ cấu nền kinh tế 2016-2020” do TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), trình bày có một cái kết đầy lạc quan. Đó là cơ hội lớn và đa dạng đang ở trước mắt. “Tôi không lạc quan tếu. Nền kinh tế đang đứng trước nhiều thách thức, nhiều điểm yếu, nhưng điều mà tôi nhìn thấy là nếu hóa giải được những thách thức này, đó là cơ hội của nền kinh tế” - TS. Cung lý giải.

Nhưng những thách thức cần phải vượt qua để có được cơ hội trong giai đoạn tới không hề nhỏ, nhất là khi so sánh tương quan giữa  điểm mạnh và điểm yếu, được chỉ ra trong nghiên cứu của CIEM. Đặc biệt khi ông Cung và các đồng sự của mình đang cho rằng, vai trò quyết định sự thay đổi của giai đoạn tới đây là Nhà nước. “Nếu tư duy quản lý nhà nước còn né thị trường, coi nhẹ cạnh tranh công bằng; không nhận thức được cạnh tranh công bằng là cốt lõi của kinh tế thị trường, là động lực đối với doanh nghiệp và người dân thì sẽ không thể tạo nên sự thay đổi trong thị trường. Mà đây lại là cốt lõi của giai đoạn hội nhập, nguyên tắc của các cam kết hội nhập Việt Nam đang và tiếp tục tham gia sâu hơn” - ông Cung nói.

Các FTA nói chung và TPP nói riêng về bản chất là tự do kinh doanh hơn, thuận lợi kinh doanh hơn, bảo vệ tốt hơn tài sản, quyền và lợi ích của các nhà đầu tư, cạnh tranh bình đẳng, đối xử bình đẳng… Tức là kinh tế thị trường ngày càng tự do hơn, trật tự và bao dung hơn. Vậy, hội nhập trước hết phải đổi mới tư duy, phải tiến cùng thời đại, thúc đẩy cải cách mạnh mẽ theo hướng kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, thị trường, thị trường và thị trường nhiều hơn, cạnh tranh công bằng hơn. Có như vậy nền kinh tế nước ta mới hội nhập thực sự, chứ không phải bị cuốn theo xu thế hội nhập.

TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM

Đây không phải lần đầu CIEM chỉ ra rằng môi trường kinh doanh tại Việt Nam chưa thúc đẩy cạnh tranh trật tự và công bằng. Nhưng lần này, các chuyên gia nghiên cứu của CIEM đặt vấn đề một cách thẳng thắn rằng đó là một trong những điều công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn vừa qua vẫn chưa chạm đến được. Và đó là thách thức lớn nhất trong giai đoạn tiếp theo. Theo đó, không có thị trường sơ cấp về đất đai, tài nguyên thiên nhiên; thị trường thứ cấp rất méo mó, sai lệch; rủi ro cao, chi phí giao dịch cao đã khiến nhà đầu tư, doanh nghiệp tư nhân rơi vào tình thế oái oăm: Sau khi mua và tích tụ được đất, doanh nghiệp phải làm các thủ tục để thuê mảnh đất mà chính họ đã bỏ tiền ra mua để kinh doanh.

Nhận định trên của CIEM có thể hiểu rằng đến nay vai trò phân bổ và điều tiết sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên vẫn chưa được thể hiện rõ ràng, thậm chí chưa có. Vì vậy, quan hệ giữa người dân với cơ quan nhà nước, công chức nhà nước có liên quan tới việc phân bổ các nguồn lực này là quan hệ xin - cho, ban phát theo phương thức hành chính chứ không phải giao dịch thị trường. Với cách thức này, cơ hội lột xác và thay đổi của ngành nông nghiệp trong hội nhập tới đây chỉ có thể đến khi Luật Đất đai được thay đổi, hình thành thị trường đất đai nông nghiệp ổn định và vận hành tốt. Chỉ khi đó, thực tiễn tốt như xuất khẩu thủy sản, bò sữa TH True Milk, Vinamilk, sản xuất mía ở Lào của bầu Đức; cánh đồng mẫu lớn… mới trở thành phổ biến, từ đó thay đổi về chất  ngành nông nghiệp Việt Nam.

Vai trò chủ động của Nhà nước

Cũng phải nói thêm, các phiên bản Luật Doanh nghiệp đã gỡ bỏ rất nhiều rào cản gia nhập thị trường đối với doanh nghiệp, đưa Việt Nam tăng dần vị trí trong Bảng Xếp hạng về môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố hàng năm. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, riêng thứ hạng về gia nhập thị trường của Việt Nam tăng rất đáng kể. Tuy nhiên, giới kinh doanh vẫn đang hết sức bối rối với danh mục 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, đi kèm đó là hàng ngàn trang giấy quy định về điều kiện kinh doanh, có nhiều điều kiện thay đổi không lường trước. Đó là chưa kể cách hiểu và thực thi các điều kiện này trên thực tế nhiều khi không thống nhất.

Chẳng hạn, tình trạng phân tán quyền lực tại các cơ quan nhà nước, dẫn tới việc thiếu sự phối hợp, thiếu người chịu trách nhiệm trong hoạch định và yếu kém trong thực thi chính sách. Và khi thiết chế giám sát, kiểm tra giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp và khác cấp chưa mạnh, cộng với tư duy ưu đãi doanh nghiệp nhà nước vẫn là chủ đạo, việc phía thị trường của Việt Nam đang rất thiếu yếu tố thị trường, trong khi phía Nhà nước lại thừa yếu tố này. Hệ quả của sự thiếu tính thị trường ở phía thị trường là cộng đồng doanh nghiệp không thể nhìn xa, không có động lực chơi chung luật chơi của thị trường thế giới. Ngược lại, sự thừa tính thị trường ở phía Nhà nước cũng lại khiến người dân, doanh nghiệp Việt Nam bị cuốn theo dòng chảy, trào lưu của hội nhập mà không chủ động tham gia hội nhập.

Nền kinh tế Việt Nam không thể có lựa chọn khác là phải tiếp tục thay đổi theo đúng hướng thị trường, vỗ cùng nhịp cánh của hội nhập. Lần này, vai trò chủ động và quyết định thuộc về phía Nhà nước.

Các tin khác